Thursday, November 29, 2012

Tâm Là Gì? Nó Ở Đâu Trong Cơ Thể

Lời Người Dịch
Tâm là gì? Trong chúng ta chắc có nhiều người đã từng được nghe giai thoại Thiền học liên quan đến câu chuyện "an tâm" giữa Bồ Đề Đạt Ma và Tổ Huệ Khả. Khi Tổ Huệ Khả thỉnh.

Tâm ở đâu? 

Cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa tâm và thân, như thế, đã kéo dài từ bao thế kỷ qua. Sam Parnia, Bác sĩ chuyên khoa hồi sinh, Giám đốc Dự án “Human Consciousness Project” và là tác giả cuốn “Chuyện Gí Xảy Ra Khi Chúng Ta Chết,” đang cố gắng để giải quyết cuộc tranh luận này. Trong một cuộc phỏng vấn hồi đầu tháng 10/08 dành cho AOL, Bác sĩ Parnia đã cho chúng ta một ý niệm căn bản về trường hợp cận tử cũng như phương pháp khoa học thực nghiệm được áp dụng hiện nay trong việc khảo cứu về tâm. Ông đã chứng minh cho ta thấy một điều: Tâm có mặt, hiện hữu như một thực thể độc lập đối với não bộ. Kết quả này vô hình chung đã hoàn toàn phù hợp với những gì được mô tả trong “Tử Thư” của Phật giáo Tây Tạng về việc thần thức lìa bỏ xác thân trong giờ lâm tử. Đây là một bước tiến quan trọng của khoa học trong nỗ lực nghiên cứu về tâm. Từ viên gạch lót đường này, khoa học đang bắt đầu có những bước đi mới vào ngưởng cửa bí mật này.


Tốt nghiệp Đại Học Y Khoa St. Thomas, Luân Đôn, BS Parnia là người sáng lập Consciousness Research Group tại Đại học Southampton, Anh quốc. Cùng với Tiến sĩ Peter Fenwick, những công trình nghiên cứu của ông về Kinh Nghiệm Cận Tử (NDE - near-death experiences) đã gây được sự chú ý của dư luận, không phải chỉ riêng ở Anh quốc mà trên toàn thế giới. Công trình ngiên cứu này đã được trình bày trong một tác phẩm xuất bản mơi đây: “What Happens When We Die: A Groundbreaking Study into the Nature of Life and Death.” LCĐ.

Làm sao bác sĩ có thể giải thích được trường hợp cận tử?

Cho đến nay, bằng chứng cho thấy là khi trái tim ngừng đập, máu sẽ không còn luân lưu trong cơ thể, tất cả đều đi vào trạng thái bất động. Não bộ chấm dứt hoạt động trong vòng 10 giây sau đó. Một điều khá thích thú là –khi chúng tôi, những bác sĩ điều trị, cố gắng tìm cách can thiệp vào bằng cách xoa bóp ngực, cho thuốc, kích thích trái tim- mặc cho tất cả những nỗ lực này có thể kéo dài hàng chục phút hay cả giờ, các cuộc nghiên cứu đều cho thấy là chúng ta vẫn không thể nào bơm đủ liều lượng máu cần thiết vào não bộ để cho nó hoạt động trở lại.

Vậy thì điều gì đã xảy ra cho tâm ở giây phút này? Cụ thể hơn, trong trường hợp của tôi, điều gì đã xảy ra cho bệnh nhân mà tôi đang điều trị? Cái tâm của y có còn ở đó hay không? Chúng ta nghĩ rằng tâm cũng sẽ chấm dứt hoạt động chỉ trong vòng vài giây đồng hồ. tuy nhiên một điều thích thú là, trong 5 cuộc nghiên cứu độc lập khác nhau -một là của tôi- có từ 10 đến 20 phần trăm những người đã được công nhận chết lâm sàng, người ta vẫn ghi nhận được có những dấu hiệu về một số hoạt động của tâm. Nó cho thấy một điều rằng, ở trong con người có một số loại hình ý thức nào đó vẫn còn hiện diện cho dù não bộ đã không còn hoạt động nữa.

Những điều mà họ mô tả được gọi là kinh nghiệm cận tử. Đây là cảnh giới chủ quan, giống như ỏ trong giấc mơ. Thông thường, họ bảo rằng, “Tôi đã thấy một cái đường hầm, Tôi đã thấy ánh sáng.” Chúng ta không thể nào thẩm định được những điều này. Tôi không thể nào nói rằng giấc mơ của bạn là thực hay không thực. Một số người sau khi được hồi sinh đã kể lại rằng họ đã thấy quang cảnh bác sĩ và y tá đang làm việc với những chi tiết đặc thù. Thế thì câu hỏi đặt ra là –nó có xảy ra đúng như vậy không? Có thực sự như vậy không? Những Bác sĩ và y tá tại hiện trường đều xác nhận về những điều mà bệnh nhân mô tả là đúng. Điều này có nghĩa là bệnh nhân khi sống lại đã nhớ lại tất cả những gì đã xảy ra. Vậy thì họ đã thực sự trông thấy? Trông thấy bằng cách nào? Hoặc giả lúc đó tâm của họ đang thực sự lơ lửng ở một nơi nào đó trên trần nhà?

Điểm quan trọng ở đây là, không ai với đầu óc bình thường lại có thể phủ nhân kinh nghiệm này đã xảy ra. Câu trả lời dễ dàng nhất thì cứ cho rằng đây chỉ là một tró chơi của tâm, một cái ảo ảnh. Nhưng vấn nạn là, khi sống lại họ đã nói cho chúng ta biết tất cả những gì đã thực sự xảy ra tại phòng hồi sinh. Thế nên khó mà cho rằng đây chỉ là một ảo ảnh. Người ta chỉ có thể giải thích rằng sự việc như thế xảy ra vào ngay thời điểm khi não bộ vừa ngưng hoạt động hay là vừa mới phục hồi. Chẳng hạn như bạn nằm mơ thấy mình đang sống ở một nơi nào đó cả hàng năm trời, nhưng nó chỉ có thể xảy ra trong thời gian thực tế chưa tới một phần triệu giây đồng hồ. Cũng vậy, ngay lúc não bộ bắt đầu ngưng hoạt động, bạn liền có ngay cái kinh nghiệm nhanh chóng tại hiện trường và cảm tưởng như là mình đã có mặt ở đó trong suốt thời gian. Tuy nhiên vấn đề ở đây là, hãy tạm gác qua một bên những chuyện đường hầm và ánh sáng, những bệnh nhân sống lại đã kể cho chúng ta nghe những chi tiết rất đặc thù, “Nó có thể đã xảy ra vào khoảng 9:15AM.” Và những sự kiện mô tả đã xảy ra trong khoảng từ 10 đến 20 phút.

Một cách giải thích khác là họ thực sự trông thấy mọi việc. Họ đã nhắm mắt và chuyện xảy ra là có thể họ mở mắt ra lại ở một lúc nào đó và chúng bắt đầu tích lũy dữ kiện rồi não bộ thu lượm những dữ kiện này. Điểm then chốt của cách lý giải này là bệnh nhân đã thực sự trông thấy mọi chuyện đang xảy ra.

Tâm vẫn còn là một bí mật. Chúng ta không thể hiểu được. Có thể tâm là phi-cục-bộ với não bộ. Nếu bạn đem vấn đề này hỏi những nhà vật lý lượng tử thì có thể như vậy bởi vì chúng ta hiểu rằng ở mức độ này, mọi sự vật có tính phi-cục-bộ. Chúng ứng xử trong một cách thế có vẻ không giống ai.

Bác sĩ hy vọng đạt được những gì thông qua công trình nghiên cứu này?

Tiến bộ về y khoa? Một sự hiểu biết sâu sắc hơn về cái chết?

Tất cả những gì mà chúng ta làm trong lãnh vực y khoa đều mang đến phúc lợi cho xã hội. Nếu bạn bỗng dưng khám phá ra một phương thuốc điều trị bệnh ung thư, đó là một bước tiến của y khoa nhưng chung cuộc vẫn là một bước tiến của xã hội. Đây là một công trình nghiên cứu y khoa sẽ mang đến phúc lợi cho toàn xã hội. Công việc này khá quan trọng bởi vì những hiểu biết của chúng ta về tâm và não rất ít oi. Trong đa số trường hợp, chúng ta không thể tách lìa chúng. Chỉ trong trường hợp chết lâm sàng hoặc bị đứng tim, tâm và bão bộ mới có thể tách rời khỏi nhau. Và nếu như chúng có thể được tách rời ra thì vấn đề này sẽ có những tác động đến khoa thần kinh học.

Phần lớn công việc mà chúng tôi đang làm là nghiên cứu những gì xảy ra cho não bộ cùng phương thức mà chúng tôi có thể cải thiện vấn đề hồi sinh đối với trường hợp đứng tim, cải thiện phương thức trông nom những bệnh nhân tim vừa mới ngưng đập. Nếu chúng tôi mang được bệnh nhân trở lại với đời sống kịp thời, sẽ tránh được cho họ những thiệt hại về hệ thần kinh, những hư hỏng về trí não, và những bất bình thường khác.

Nó thực sự mở ra một viễn cảnh vô tận. Một đằng là chuyên về tim và đằng khác là khoa thần kinh học. Một cách tổng quát, nó sẽ mang phúc lợi đến cho mọi người.

Trường hợp cận tử (NDE)

Bằng cách nào bác sĩ có thể xác nghiệm tính cách đúng đắn về những kinh nghiệm xảy ra mà bệnh nhân cận tử mô tả lại?

Chúng tôi cho thiết trí một bộ phận giống như cái kệ ở ngay phía trên đầu giường của bệnh nhân. Phía bề mặt của cái kệ quay xuống dưới -tức là phía mà bạn có thể trông thấy khi đang nằm ngữa ở trên giường quay mặt nhìn lên- có một cái hình tam giác. Ở phía kia, tức là phía mà bạn chỉ có thể trông thấy được khi ở trên trần nhà nhìn xuống (bệnh nhân không thể trông thấy được), có vẽ một bức tranh tương đối phức tạp.

Hãy hình dung bạn đang nằm trên giường bệnh viện mà ở phía trên mình là một cái kệ. Nếu người nào đó (tức là bệnh nhân kể lại về kinh nghiệm cận tử) sau khi sống lại và mô tả là họ đã thấy một hình ảnh nào đó, trường hợp này như đã nói ở trên là một trò chơi của tâm, một ảo ảnh. Nếu họ bảo rằng họ trông thấy một cái hình tam giác, thì có thể là bởi vì họ đã mở mắt ra. Còn nếu khi sống lại họ cho biết là đã nhìn thấy cái bức tranh phức tạp kia, điều này có nghĩa là ý thức (tâm) của họ tiếp tục tồn tại.

Trong công trình nghiên cứu này chúng tôi muốn cho thiết trí khoảng từ 50 đến 100 cái loại kệ này, tối thiểu ở khoảng 25 bệnh viện. Chúng tôi đã thực hiện được khoảng một nữa -phần lớn là tại Anh quốc. Chúng tôi cũng có 9 trung tâm tại Hoa Kỳ, và chúng tôi đã tiên phong thử nghiệm phương pháp này tại Anh từ 18 tháng nay. Trong khi chúng tôi không thể nào tiên đoán được lúc nào thì trường hợp đứng tim sẽ xảy ra, chúng tôi nghĩ rằng nơi có khả năng xảy ra là phòng cấp cứu và phòng bệnh nhân nguy kịch. Một khi đã được thiết bị xong, chúng tôi chỉ làm công việc theo dõi. Và rồi chúng tôi phỏng vấn những người sống lại. Nếu chúng tôi có thể bắt gặp được trường hợp đứng tim đúng lúc, chúng tôi có thể cho gắn máy theo dõi não bộ.

Chúng tôi cũng đang sử dụng một phương tiện kỹ thuật tối tân hiện nay trong việc khảo sát não bộ gọi là INVOS [in-vivo optical spectroscopy] dùng để đo lượng oxy trong não. Tất cả những cuộc nghiên cứu trước đây đều cho biết là dù cố gắng cách nào chúng ta cũng không thể đưa đủ lượng máu cần thiết vào não. Làm sao để bạn biết được chuyện này? Biết đâu có thể đã có đủ máu ở trong não nhưng tại vì bạn không biết mà thôi. Với INVOS, chúng ta sẽ biết một cách chính xác bao nhiêu máu đã được bơm vào não và như thế chúng ta có thể ghi nhận được mối liên hệ tương quan với trường hợp cận tử. Đây là điều chưa từng được thực hiện trước đây.

Cho đến nay loại dữ kiện nào mà bác sĩ đã thu lượm được?

Chỉ là những dữ kiện rất mực tiên khởi. Chúng tôi chỉ mới bước vào giai đoạn điều chỉnh một cách tốt đẹp phương pháp nghiên cứu này. Chúng tôi mới có một số nhỏ đối tượng nghiên cứu và muốn nâng con số này lên 1,500 người. Lý do là tỷ lệ những người có kinh nghiệm cận tử, sống sót qua cơn đứng tim, rất là ít oi, chỉ khoảng 2%. Đó là lý do tại sao chúng tôi phải có rất nhiều bệnh nhân và bệnh viện để công trình nghiên cứu này có thể đạt được kết quả. Không những người sống sót đã hiếm mà trong số những người này, kinh nghiệm về cận tử lại càng hiếm hơn.

Tâm vẫn là một bí mật hàng đầu.

Hồi nào thì bác sĩ quan tâm đến chuyện có sự phân cách giữa tâm và não bộ?

Tôi bắt đầu quan tâm đến vấn đề này khi còn là một sinh viên y khoa, mười lăm năm trước đây. Khi mà bạn -những y tá, bác sĩ- phải đối diện và có những quyết định liên quan đến những vấn đề sống chết (cụ thể như có nên thực hiện việc hồi sinh cho bệnh nhân này không?), tất cả đều chỉ đơn thuần dựa trên những ý kiến chủ quan, và dĩ nhiên là có một sự mù mờ trong đó.

Trong năm cuối cùng trước khi tốt nghiệp, tôi đã chứng kiến một số lượng bệnh nhân bị đột tử vì đứng tim. Trong đó có một trưởng hợp đặc biệt, đó là một bệnh nhân mà tôi đã từng quen biết trước đây. Một hôm, tôi vừa mới rời phòng anh ta chừng 30 phút vì anh ta trông có vẻ khỏe khoắn thì nhận được cấp báo là có một trường hợp đứng tim xảy ra. Bất hạnh thay, trường hợp đó lại chính là anh ta.

Bây giờ nhớ lại, khi thấy anh ta nằm bất động ở trên giường tôi không khỏi khởi lên suy nghĩ: “Chuyện gì đang xảy ra cho cái tâm và ý thức của anh ta? Anh ta có thể nghe hay nhìn thấy chúng tôi không?” Tôi đã từng nghe những mẩu chuyện như vậy về những người có kinh nghiệm cận tử, thế nhưng vẫn chưa có câu trả lời chính thức của khoa học. Tôi nghĩ đó là giây phút quyết định của đời tôi.

Ngay cả lúc còn là một sinh viên y khoa tôi đã rất thích thú trong việc tìm hiểu tâm là gì, và mối liên hệ của nó với não bộ ra sao. Tại sao chúng ta là một nhất thể toàn vẹn như là những cá nhân với những nhân cách, cảm xúc, tình cảm? Trước đây tôi tin rằng tất cả đều bị cắt đứt, khô kiệt (khi một người chết) cho đến khi tôi bắt đầu nhìn sâu chi tiết vào vấn đề này. Có thể nói đây là lãnh vực cuối cùng của khoa học hoàn toàn chưa được khám phá.

Thế thì, trên quan điểm cá nhân, bác sĩ tin rằng tâm là cái gì?

Ngay bây giờ, dĩ nhiên, tôi không có câu trả lời cho bạn. Tâm vẫn là một bí ần hàng đầu. Mặc dầu đa phần mỗi con người chúng ta không ngừng phóng thích những hoạt động điện tử, nhưng không ai đưa ra được một thí nghiệm hay là một bằng chứng khả tín nào về cơ chế vận hành sinh học.

Nếu tôi bảo bạn nhìn vào một cái tế bào não ở trong kính hiển vi và bảo rằng, “Cái tế bào não này đang suy nghĩ hay đang mệt mỏi,” chắc bạn sẽ tự bảo mình, “Cái ông này ăn nói ba trợn. Làm sao mà nó có thể sản xuất ra một tư tưởng, ý nghĩ được.” Chuyện gì xảy ra khi bạn nối kết, 2 hay 100, hay 1,000 hoặc 1 triệu tế bào não lại với nhau? Những tư tưởng phát xuất từ đâu? Không ai biết. Không ai có thể giải thích. Điều này đưa ta đến vấn nạn trong việc tìm hiểu về ý thức.

Hiện đang có hai khuynh hướng liên quan đến vấn đề này. Một phe thuộc khuynh hướng cổ điển, quy ước hơn, cho rằng có những hoạt động điện-hoá xảy ra trong não bộ, nhưng họ không thể giải thích được như thế nào. Còn phe kia thì thú nhận rằng đó là một thực thể mà khoa học chưa khám phá được cho nên không thể giải thích tiến trình được biết của não bộ. Cũng chẳng khác gì toán học và trọng lực. Bạn không thể phân chia trọng lực ra thành những mảnh nhỏ. Trọng lực là trọng lực.

Có thể nói có đến khoảng chín mươi chín phần trăm thời gian của đời sống, bạn không thể nào tách rời tâm và não ra khỏi nhau. Tuy nhiên trong một số trường hợp hiếm hoi, bạn có thể làm được việc này bởi vì não hoàn toàn ngưng hoạt động và bạn có thể quan sát được những gì xảy ra đối với tâm. Nếu quan điểm của phe thứ nhất là đúng -rằng đó là những hoạt động của tế bào não - thế thì khi bạn cho não ngừng hoạt động, cái tâm cũng sẽ phải biến mất theo. Cũng giống như ánh sáng, khi bạn tắt điện, ánh sáng tắt theo, khi bạn mở điện, ánh sáng trở lại. Và như vậy, một khi bạn tắt điện mà ánh sánh vẫn còn –có nghĩa rằng nó không phải là nguồn của ánh sáng. Đây là một thực thể khoa học hoàn toàn mới mẻ. Nghiên cứu vấn đề này rất mực thú vị bởi vì đây có thể là lần duy nhất chúng ta có mọi câu trả lời dứt điểm cho một câu hỏi đã từng được nêu lên từ thời Hy Lạp cổ. Người ta đã không ngừng tranh luận nhau về vấn đề này qua mọi nền văn minh trên thế giới. Và bây giờ họ vẫn tiếp tục tranh luận, cũng cùng một vấn đề đó, và cũng cùng hai phe đó.

Vấn Đề Tâm Thể Trong Tâm Lý Học Phật Giáo 

I. Các học phái đồng thời với Phật và vấn đề Tâm thể

Chúng ta có thể phân chia các học phái Ấn Độ đồng thời với Đức Phật đối với vấn đề Tâm thể ra làm hai đường hướng chính yếu:

- Chủ trương về linh hồn thường trụ bất biến, tất là chủ trương hữu ngã, hay nói cách khác đó là khuynh hướng Tâm lý học về Duy tâm luận.

- Chủ trương tác dụng của tâm lý chỉ những biểu thị của vật chất, tức là khuynh hướng Duy vật luận, Chủ trương này, thời bấy giờ, được Phật giáo mệnh danh là Thuận thế ngoại đạo.

Về phía Phật giáo, trên đại thể mà nói, chủ trương của Đức Phật được mệnh danh là thuyết “Trung đạo”. Thái độ của Đức Phật là vừa không chấp nhận thuyết linh hồn thường trụ của khuynh hướng Duy tâm luận, vừa bác bỏ chủ trương Duy vật luận, đưa đến chủ trương điều hòa cả hai. Coi chủ thể sinh hoạt của con người như một linh hồn cố định bất biến chỉ là một thứ mê tín, vì sinh hoạt tâm linh con người luôn biến đổi trong từng sát na. Đó là đặc chất Vô ngã luận của Phật giáo. Nó phản đối chủ trương của triết học Upanishad và những học phái có cùng chủ trương tương tự. Về phía Duy vật luận nếu coi vật chất như là một thứ phi tinh thần nhưng từ đó mà sản xuất tinh thần lại là điều phi lý, bác bỏ cả hai chủ trương, coi như là hai thái cực ấy, Đức Phật đã nêu lên “con đường giữa”.

Đối với con đường thuyết giáo của Đức Phật, theo đó các sinh hoạt tâm lý là do những mối quan hệ giữa các yếu tố, không phải chỉ là đặt trên nền tảng duy nhất của tâm hay vật. Đứng trên lập trường sinh hoạt hiện thực, người ta có thể phân biệt những yếu tố riêng biệt tâm và vật, nhưng phân biệt ấy phải được nhìn theo tính cách quan hệ lẫn nhau. Đức Phật không chú trọng đến vấn đề giải thích tâm và vật là hai hay là một. Nhưng nếu chúng ta muốn biết sự quan hệ giữa yếu tố tâm lý và yếu tố vật chất, thì chúng ta cứ tạm gọi là chúng không phải một mà cũng không phải là hai, hay nói cách khác, không đồng nhất cũng không dị biệt. Bởi vì, cứ theo những lời thuyết giáo của Phật, các yếu tố ấy, không một yếu tố nào cố định. Như vậy nói tâm hay nói vật chỉ là nói theo ước lệ, nói theo một giai đoạn sinh hoạt nào đó của tâm lý.

II. Vấn đề Tâm thể trong Phật giáo Nguyên thủy

Ở những điều vừa nói trên, chúng ta có thể nêu ra ở đây mấy điểm nhận định:

1. Đức Phật bác bỏ những quan niệm cho rằng “Linh hồn là cố định” của các dòng tư tưởng về trước.
2. Sinh hoạt của tâm lý là một trạng thái phức hợp.
3. Tác dụng của sinh lý và tâm lý không phải đồng nhất cũng không phải là dị biệt.
4. Tâm lý luôn luôn lưu động trong sát na sinh diệt và biến đổi.

Tâm lý học Phật giáo cũng không phải chỉ dừng lại ở đó. Sự tiến bộ của nó dần dần dẫn đến những vấn đề tâm sở. Điều nên để ý ở đây Tâm lý học Phật giáo không chỉ hạn cuộc vào những sinh hoạt tâm lý hiện tại mà còn đề cập đến những quan hệ giữa các tình trạng tâm lý hiện tại đối với những sinh hoạt tâm lý trong quá khứ và cả đến vị lai nữa. Chuỗi thời gian này sẽ kéo dài bất tận trong quan điểm về luân hồi lưu chuyển. Đằng khác, lại còn có sự quan hệ giữa những sinh hoạt đó đối với thế giới của những sinh hoạt đó, và thế giới cũng không chỉ giới hạn vào thế giới khả giác hiện tại của nhân gian mà còn là những thế giới bên trên sinh hoạt tầm thường của thế gian, nghĩa là cả: Dục giới (Kamavacana), Sắc giới (Rùpavacana) và Vô sắc giới (Arùpavacana).

Phật giáo chủ trương Vô ngã (Anatta), không có một thực thể linh hồn thực tại bất biến, nhưng lại chủ trương luân hồi, vậy cái gì luân hồi? Đó là vấn đề cần phải giải quyết. Ở đây, chúng ta có thể trích dẫn một đoạn văn trong kinh A Hàm (Agama), coi như là giải thích vấn đề đó: “Có nghiệp báo, không có tác giả; khi ngũ ấm (skandha) này đã diệt, ngũ ấm khác tương tục sinh khởi”. Điều này đòi hỏi một trình độ kinh nghiệm tập Thiền khá cao, mới có thể nhìn thấy được những tương tục tiếp nối của những tổ hợp tâm lý, tức ngũ uẩn hay ngũ ấm, và ngay cả những người theo Phật giáo thời bấy giờ vẫn có ý đồ coi Thức (Citta) như một thực thể tương tục sau khi chết nhưng bất biến. Do đó, Đức Phật mới thuyết giáo về đạo lý Duyên khởi (Pratityasamutpàda), theo đó, thức cũng chỉ là một thứ do duyên sinh: có cái này là vì có cái kia, không có một thực thể độc lập. Thêm nữa, theo một ý nghĩa khác, Phật như đã thừa nhận Tâm là một yếu tố chính yếu, gọi là “Vô ý thức”, được coi như quan niệm về vô minh (avidya) và nghiệp (karma). Nghiệp, có thể nói đó là tính cách “vô ý thức”. Vô minh, gần giống như kiểu ý chí sinh tồn của Schopenhauer.

III. Từ Vô ngã đến Hữu ngã

Đặt cơ sở trên bối cảnh tâm lý học như vậy, đối với sự phát triển và tổ chức của nó ở thời Phật giáo Nguyên thủy, người ta phải cần đến một giải thích xác định nào? Đó là đề mục về Tâm lý học của thời đại bộ phái Phật giáo. Về bộ phái mà có thể biểu trưng cho tinh thần chính thống Phật giáo, ta có thể nói đến Thượng tọa bộ ở Tích Lan (Theravàda), hoặc là Thuyết Nhất thiết hữu bộ (Sarvàstvàda) ở vùng Kasmir.

Những bộ phái này thủy chung chủ trương Vô ngã. Tuy vậy, trong những chi phái của các bộ phái lớn này cũng có nảy sinh chủ trương Hữu ngã.

Về phía Đại chúng bộ, có thái độ Quan niệm luận, vì là đề cao tư tưởng Không, cho nên hẳn là phản đối chủ trương hữu ngã, nhưng trong sự phát triển lại cũng phát sinh một vài ý hướng như muốn tiến gần đến Hữu ngã luận.

Như vậy, bản chất tâm lý, tức là vấn đề sinh mạng, tư tưởng của Tiểu thừa Phật giáo đã không ngừng phát triển, và đã trở thành vấn đề sôi nổi. Đối với lịch sử Phật giáo, nó là vấn đề quan trọng nhất.

Theo một bộ luận Hán dịch, mang tên là Tam di để bộ luận (Samityasastra), tương truyền là thuộc Chánh lượng bộ (Samitya), có ghi những ý kiến bất đồng giữa các bộ phái như sau:

1. Chủ trương vô ngã
2. Chủ trương bất khả thuyết hữu ngã, vô ngã
3. Chủ trương hữu ngã
4. Ngũ uẩn luận
5. Con người (Pudgala) và ngũ uẩn khác nhau
6. Con người là vô thường
7. Con người là hữu thường.

Chủ trương thứ ba là lập luận ngã vừa có vừa không. Thứ tư và thứ năm là lập luận về tâm thể và ngũ uẩn đồng nhất hay dị biệt. Thứ sáu là lập luận về tâm thường và vô thường. Như vậy, trong bảy điểm trên, không hẳn là những điểm chống đối nhau. Tóm lại liên quan đến vấn đề chủ thể của tâm lý, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng, lập trường chính yếu của Phật giáo là Vô ngã luận, mà nội dung của nó, như chúng ta đã thấy trên, có thể là đứng về phía vô ngã hoặc về phía hữu ngã khác nhau; tất có lẽ đã không có ai sai lầm đối với lập trường vô ngã chính yếu của Phật giáo.

IV. Cơ giới Vô ngã luận

Chủ trương của các luận sư A tì đàm (Abhidharma) là mọi sinh hoạt tâm lý đều đặt trên quan hệ của hiện tượng tâm lý, gọi là chủ trương cơ giới vô ngã.

Về phương diện giáo chứng, nghĩa là dẫn dụng những lời thuyết giáo của Phật để chứng minh cho lập luận và chủ trương của mình, các luận sư A tì đàm đã hay nhấn mạnh đến chủ trương vô ngã của Phật. Đức Phật căn cứ vào tâm lý mà giảng thuyết vô ngã, có khi giải phẫu các hiện tượng tâm lý, có khi giảng thuyết những trạng thái sinh hoạt của tâm lý. Những yếu tố cấu thành là sắc, thọ, tưởng, hành, thức (ngũ uẩn), và những sinh hoạt tâm lý của chúng ta không ngoài năm yếu tố ấy. Như vậy, tuy nói tâm hay nói ngã, cũng như nhiều chi tiết, bộ phận cấu thành một chiếc xe, nhưng ngoài những yếu tố ấy ra, không còn cái xe nào khác.

Thêm nữa, tình trạng sinh hoạt mà tâm lý trải qua, là đi từ cảm giác đến hiện tượng phức tạp của tâm lý. Đoạn văn được trích dẫn dưới đây là một chứng minh cho điều đó:

“Nhãn, sắc duyên nhãn thức, cả ba hòa hợp phát sinh xúc, xúc càng phát sinh với thọ, tưởng, tư, bốn vô sắc ấm...” (Luận Câu xá – Abhidharmakosasàstra, quyển 13).

Như vậy gọi là phương diện vô ngã, thủy chung coi tâm lý như là hiện tượng. Để nhận ra chân tướng của tâm, đặc biệt thuyết minh những hiện tượng cấu thành tâm lý và thuyết minh sự quan hệ của các hiện tượng ấy. Thí dụ: phân tích tâm lý thành những hiện tượng phức tạp là tâm vương và tâm sở, rồi quy định các luật tắc nhân duyên sinh khởi của chúng, cho đến thuyết minh các thứ tác dụng của tâm lý cùng tương ưng đồng thời sinh khởi như thế nào, và thực tại là kết quả phát sinh từ đó. Các luận sư Abhidharma, đối với nhiệm vụ của tâm lý học, phân tích rất tỉ mỉ những tác dụng của tâm lý và đem sự liên lạc quan hệ của chúng để thuyết minh tính cơ giới của chúng. Tính cách phức tạp của tâm lý học ở các nhà Nhất thiết hữu bộ (Sarvàstivàda) và phái Thượng tọa bộ ở Tích Lan (Theravàda) phát sinh từ đó.

Ngoài ra, chứng minh cho chủ trương Vô ngã luận, trong nhiều kinh điển cũng đã nói đến, và các luận sư A tì đàm cũng dựa vào đó làm căn cứ cho chủ trương của mình. Về phương diện tiêu cực, họ cực lực phá xích chủ trương Hữu ngã luận. Như phái Thượng tọa bộ ở Tích Lan, tuy bài xích các chủ trương của Độc tử bộ và Kinh lượng bộ, nhưng về phương diện tích cực, cũng chưa được tỏ rõ cho lắm.

Tóm lại, Vô ngã luận là căn bản của triết học Phật giáo, chỉ nhắm vào chỗ phá xích chủ trương hữu ngã. Cố nhiên, sự phá xích của các nhà Tiểu thừa đã có tương hợp với những lời thuyết giáo của Đức Phật. Nhưng đồng thời, những người chủ trương Hữu ngã luận cũng đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà chủ trương Vô ngã luận, và tài liệu ấy cũng không phải là ít. Do đó, nhiệm vụ của các luận sư A tì đàm là trả lời cho những nạn vấn đó.

Tài liệu phá xích chủ trương hữu ngã của những nhà Vô ngã luận phong phú và tiện lợi cho hiểu biết nhất, có lẽ là “Phá ngã phẩm” của Câu Xá (nhiều người cho rằng phẩm này chỉ là một sự thêm thắt của những người đi sau Thế Thân (Vasubhandu) điều này có lẽ đúng). Đối tượng chủ yếu của phẩm phá ngã này là Độc tử bộ. Về phía những người không phải là Phật giáo, thì phẩm này nhằm vào Vedanta và Vaisesika. Đồng thời, về phía chủ trương của những nhà Vô ngã luận Phật giáo, nhiều nạn vấn cũng được đặt ra.

Những nạn vấn chủ yếu:
Nếu đúng là vô ngã, thì:
1. Lưu chuyển trong vòng sinh tử là ai?
2. Ký ức làm thế nào mà sinh khởi?
3. Chủ thể của nhận thức là thế nào?
4. Sự liên tục tồn tại của tự ngã như thế nào?
5. Con người tác nghiệp như thế nào?
6. Ai là kẻ lãnh thọ quả báo của các nghiệp ấy?
Luận chủ, tuy phân chia thành ba phương diện để giải thích, nhưng những nghi vấn ấy đại đồng tiểu dị, nếu nắm được cái nhất quán của vấn đề, thì những vấn đề ấy sẽ được giải quyết.
Ngoài ra, chứng minh cho chủ trương Vô ngã luận, trong nhiều kinh điển cũng đã nói đến, và các luận sư A tì đàm cũng dựa vào đó làm căn cứ cho chủ trương của mình. Về phương diện tiêu cực, họ cực lực phá xích chủ trương Hữu ngã luận. Như phái Thượng tọa bộ ở Tích Lan, tuy bài xích các chủ trương của Độc tử bộ và Kinh lượng bộ, nhưng về phương diện tích cực, cũng chưa được tỏ rõ cho lắm.

Tóm lại, Vô ngã luận là căn bản của triết học Phật giáo, chỉ nhắm vào chỗ phá xích chủ trương hữu ngã. Cố nhiên, sự phá xích của các nhà Tiểu thừa đã có tương hợp với những lời thuyết giáo của Đức Phật. Nhưng đồng thời, những người chủ trương Hữu ngã luận cũng đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà chủ trương Vô ngã luận, và tài liệu ấy cũng không phải là ít. Do đó, nhiệm vụ của các luận sư A tì đàm là trả lời cho những nạn vấn đó.

Tài liệu phá xích chủ trương hữu ngã của những nhà Vô ngã luận phong phú và tiện lợi cho hiểu biết nhất, có lẽ là “Phá ngã phẩm” của Câu Xá (nhiều người cho rằng phẩm này chỉ là một sự thêm thắt của những người đi sau Thế Thân (Vasubhandu) điều này có lẽ đúng). Đối tượng chủ yếu của phẩm phá ngã này là Độc tử bộ. Về phía những người không phải là Phật giáo, thì phẩm này nhằm vào Vedanta và Vaisesika. Đồng thời, về phía chủ trương của những nhà Vô ngã luận Phật giáo, nhiều nạn vấn cũng được đặt ra.

Những nạn vấn chủ yếu:
Nếu đúng là vô ngã, thì:
1. Lưu chuyển trong vòng sinh tử là ai?
2. Ký ức làm thế nào mà sinh khởi?
3. Chủ thể của nhận thức là thế nào?
4. Sự liên tục tồn tại của tự ngã như thế nào?
5. Con người tác nghiệp như thế nào?
6. Ai là kẻ lãnh thọ quả báo của các nghiệp ấy?

Luận chủ, tuy phân chia thành ba phương diện để giải thích, nhưng những nghi vấn ấy đại đồng tiểu dị, nếu nắm được cái nhất quán của vấn đề, thì những vấn đề ấy sẽ được giải quyết.

Trước hết, đi từ phương diện thấp mà nói, nhận thức của chúng ta không ra ngoài sự giả định có một tự ngã để nhận thức nhưng cũng có thể thành lập lý do vô ngã. Bởi vì nhận thức chỉ là tác dụng của nguyên lý nhân duyên, do sự phối hợp giữa căn và cảnh. Nhận thức như vậy, không cần thiết phải thiết lập một tự ngã cố định nào đó, bởi lẽ, nhận thức chỉ là tác dụng của những diễn tiến tâm lý. Và bởi vì nhận thức là sinh diệt trong từng giây phút, khỏi phải nói, hẳn nhiên đó là tính cách “tương tợ” và “tương tục” trôi chảy trong từng sát na, gọi nó là tâm mà cũng gọi nó là thức. Sự tồn tại liên tục của một tự thể, giả định người ta có thể cảm thấy, cũng không ngoài sự tương tục ấy mà thôi. Ở trong dòng tương tục đó, niệm trước vừa chìm xuống, niệm sau tiếp tục sinh khởi, vị tất đã là đồng nhất với nhau.

Nếu đứng về phương diện ký ức mà thuyết minh, người ta có thể cả quyết phải có một tự ngã hay không? Những nhà Hữu ngã luận nói: “Nếu như không có tự ngã làm chủ thể cho ký ức, khi mà ý thức niệm niệm sinh diệt thì làm thế nào ký ức có thể nhớ lại những gì đã xảy ra?”. Ký ức của chúng ta là tác dụng hồi tưởng, nó nhớ lại những gì đã xảy ra, và những gì đã xảy ra đó được xuất hiện lại với ký ức, ảnh tượng của nó như là tương đồng với thực tại quá khứ. Mặc dù tâm thể luôn luôn sinh diệt biến chuyển, nhưng niệm trước diệt niệm sau sinh không phải không có một mối liên lạc nào cả. Và vấn đề luân hồi lưu chuyển ở phương diện thứ ba được đặt ra: sự quan hệ giữa tác nghiệp, chủ thể tác nghiệp và chủ thể thụ báo như thế nào, tự khắc được giải quyết. Như luận chủ nói, luân hồi không có tự ngã, nghĩa là không cần phải có một tự ngã bất biến mới luân hồi; đó chẳng qua chỉ là sự biến thiên bất tuyệt, trôi chảy không ngừng của dòng sinh mạng mà thôi. Thí dụ, như quay vòng đốm lửa, do sự tương tục mà người ta thấy có một vòng lửa. Nhưng vòng lửa ấy nhất định không có một tự ngã nào cả. Như vậy, do tu tập các uẩn (skandha) mà giả thuyết có hữu tình, rồi do sự ái thủ đó mà lưu chuyển sinh tử.

V. Sinh cơ Hữu ngã luận

Trong các học phái thuộc Phật giáo Nguyên thủy, phần lớn cố nhiên là chủ trương vô ngã, nhưng một phần khác đi gần đến kết luận hữu ngã không phải là ít. Những luận sư Hữu bộ có tranh cãi với những nhà mệnh danh là “Bổ đặc già la luận sư” (Pudgala: nhân thể). Pudgala, không rõ chỉ vào những bộ phái nào, nhưng chắc chắn là những người theo Phật giáo. Và Nam phương Thượng tọa bộ (Theravàda), tác phẩm "Luận sự” của họ, ở chương thứ nhất, đã nhằm vào chủ trương của những “Bổ đặc già la luận sư” để đả kích, và những “Bổ đặc già la luận sư” này được chú là Độc tử bộ (Vajjiputtaka Vatsìputriya) và Chính lượng bộ (Samatya). Và căn cứ theo Dị bộ tông tôn luận của Thế Hữu (Vasumitra) thì Đại chúng bộ (Mahàsanghika) tuy mang khuynh hướng Không luận, nhưng một phần nhỏ hình như đi đến chủ trương hữu ngã theo kiểu Kỳ Na giáo. Bộ phái này chủ trương: Tâm bao khắp châu thân, tâm tùy theo cảnh mà có thể co giản. Về những nhà Độc tử bộ (Vatsiputriya), họ chủ trương có một thứ ngã “Phi tức uẩn phi ly uẩn”. Kinh lượng bộ (Sautrantika) chia làm hai thứ uẩn: ngũ uẩn thông thường thì gọi là “Căn biên uẩn” và thêm một thứ uẩn mệnh danh là “Nhất vị uẩn”, ngầm chứa đựng có một chủ thể của tâm lý là Nhất vị uẩn.

Ngoài ra, như Xích đồng bộ (hay Đồng diệp bộ) chủ trương “Hữu phần thức”, Đại chúng bộ nói đến “Căn bản thức”; Hóa địa bộ nói đến “Cùng sinh tử uẩn”. Như vậy, ở những bộ phái Tiểu thừa này cũng đã chứa đựng mầm mống của thuyết A lại da thức.

Chúng ta làm một bảng liệt kê những phái chủ trương Hữu ngã luận, gồm:
1. Độc tử bộ (Vatsiputriya)
2. Đại chúng bộ (Mahasanghika)
3. Chính lượng bộ (Sammatiya)
4. Hóa địa bộ (Mahisasiha)
5. Kinh lượng bộ (Sautrantika)
6. Đồng diệp bộ (một chi phái nhỏ ở Tích Lan)
7. Pháp thượng bộ
8. Hiền trụ bộ
9. Mật lâm sơn bộ.

Người ta cũng có thể thêm vào chủ trương của Đại thừa là Du già phái (Yogacara) tức là Duy thức học.

Về khởi điểm khuynh hướng hữu ngã này, người ta không biết rõ. Cứ như truyền thuyết, Đề Bà Thiết Ma là nhân vật sinh vào khoảng sau Phật Niết bàn 100 năm, mà đã có nói đến Bổ đặc già la luận sư. Tuy nhiên, niên đại của Đề Bà Thiết Ma không chắc chắn. Vậy, trên đại thể, sau khi Phật Niết bàn khoảng 200 năm, các trào lưu theo chủ trương hữu ngã đã xuất hiện khá nhiều.

VI. Độc tử bộ và Hữu ngã luận

Độc tử bộ là một chi phái phát xuất từ hệ phái Thượng tọa bộ (Sthavira), tất nhiên là những giải thích về lập trường vô ngã của hệ phái này đã gặp nhiều khó khăn, và những người muốn đi tìm lối giải thích khác đã phát xuất Độc tử bộ. Những vấn đề khó khăn, như đã nói: Chủ thể luân hồi như thế nào? Chủ thể của ký ức như thế nào? Trung tâm của nhận thức là gì?

Chúng ta có thể khái lược về căn cứ của chủ trương Hữu ngã luận những “Bổ đặc già la luận sư” như sau, theo Thức thân tức luận của Đề Bà Thiết Ma.

1. Căn cứ vào chủ thể của tác nghiệp và cảm thọ của nó, và
2. Căn cứ vào chủ thể của tri giác, phán đoán.

Từ những căn cứ đó, hình thành lập trường hữu ngã. Hoặc giả, theo như luận Đại tì bà sa, Độc tử bộ thuyết minh hữu ngã là căn cứ trên lập trường về chủ thể của nhận thức; hay, do tìm kiếm chủ thể của ký ức mà thiết lập Hữu ngã luận. Ở Câu xa, phẩm Phá ngã, cho rằng Hữu ngã luận được thành lập do sự tìm kiếm chủ thể của ký ức. Thêm nữa, lý do thành lập Hữu ngã luận của những nhà Sammatya (Chính lượng bộ) là đối với trách nhiệm về thiện và ác, từ đó thuyết minh chủ thể thọ báo luân hồi. Những luận Tam di đề của phái Chính lượng bộ (Sammatya) không nói đến chủ trương hữu ngã của những nhà Độc tử bộ. Và theo như trình bày của Dị bộ tông tôn luận, Độc tử bộ chuyên môn dựa trên giải thích luân hồi mà thành lập chủ trương hữu ngã.

Điểm khó khăn cho Độc tử bộ trong công trình thành lập Hữu ngã luận là như thế này: nguồn gốc, căn cứ theo những lời thuyết giáo của Đức Phật, thì sinh mạng, tâm lý của con người do sự tích tụ năm uẩn; ngoài năm uẩn ra, không có một tự ngã cố định nào cả. Còn đối với Độc tử bộ thì ngoài năm uẩn, các luận sư còn thành lập thêm một ngã thể nữa, như vậy giống với chủ trương của những người bài xích Phật giáo, cố nhiên là khó đứng vững với truyền thống. Điều nan giải đó là mối bận tâm lớn lao của những nhà Độc tử bộ. Cuối cùng, họ thành lập một thứ ngã mệnh danh là “không phải uẩn cũng không phải phi uẩn” (phi tức uẩn phi ly uẩn ngã). Như vậy có một tự thể “bất khả thuyết” là tự thể trung tâm cho các sinh hoạt của con người. Theo những nhà Độc tử bộ, sự quan hệ giữa uẩn và ngã cũng giống như sự quan hệ giữa lửa và nhiên liệu. Ngoài nhiên liệu ra không có lửa và ngoài lửa ra cũng có nhiên liệu. Như vậy, sự quan hệ giữa uẩn và ngã là “bất nhất, bất dị”, “bất tức, bất ly”. Vượt ngoài hai kiến chấp đoạn và thường, người ta mới có thể tìm thấy bản chất chân thật của sinh mạng. Với ý nghĩa đó, những nhà Độc tử bộ thành lập có “Bổ đặc già la” (Pudgala) nó không phải thực hữu cũng không phải giả hữu. Pudgala, không phải biệt lập với uẩn, cũng không phải chỉ là giả danh do những tích tập, mà là nội bộ của thân tâm tồn tại do các yếu tố cảm giác, và làm trung tâm cho chúng. Tiến thêm, bản thể của các tự ngã “phi tức uẩn phi ly uẩn” đó như thế nào? Ấy là điều không thể nói được, và những nhà Độc tử bộ mới nói rằng “Bất khả thuyết”, và họ thành lập “Bất khả thuyết tạng” để chỉ cho tự ngã ấy.

Lối giải thích của những nhà Độc tử bộ tuy là rất lý thú, nhưng nếu họ không đồng lập với những hữu bộ, là vì cả hai không nhìn ngũ uẩn dưới một cái nhìn như nhau. Một đằng, những nhà Độc tử bộ, lấy vô minh hoặc nghiệp làm trung tâm của ngũ uẩn. Đằng khác, những nhà Hữu bộ coi ngũ uẩn như là cơ giới. Có thể nói, họ cùng đứng trước một cái hồn nhiên nhất thể mà lại không nhìn như nhau.

Cái hồn nhiên nhất thể đó, khi phân tích, tuy là ngũ uẩn nhưng không phải là tích tụ theo kiểu cơ giới, cho nên không thể nói năm uẩn chính là ngã, và đồng thời, phân tích các yếu tố của cái hồn nhiên nhất thể đó, thì cái hồn nhiên nhất thể ấy lại cũng không ở ngoài ngũ uẩn, cho nên không thể nói nó tồn tại ở ngoài ngũ uẩn. Đó là ý nghĩa căn bản của chủ thuyết “phi tức uẩn phi ly uẩn ngã”. Song, chủ trương có một tự ngã không phải uẩn cũng không phải ở ngoài uẩn của những nhà Độc tử bộ không giống như chủ trương của những học thuyết bên ngoài truyền thống Phật giáo; tự ngã có lưu động, mặc dù có sự nhất quán của một cái nhất thể hồn nhiên tiếp nối từ trước và sau. Pudgala của họ được thành lập bên ngoài hai kiến chấp đoạn thường. Nó gần giống, và có thể là tiên phong, cho chủ thuyết A lại da sau này của những nhà Duy thức. Mặc dù Độc tử bộ bị các nhà Phật học đả kích kịch liệt, cho rằng đó là chủ trương của “những người ngoại đạo bám vào Phật giáo”, nhưng ảnh hưởng của nó không phải là không có. Như Duy thức học, mặc dù cũng đả kích Độc tử bộ, vẫn có quan hệ với Độc tử bộ, ở chủ thuyết A lại da thức. Cố nhiên, như những điều đã trình bày, Độc tử bộ không phải hoàn toàn ở ngoài truyền thống của Phật giáo, khi mà họ đã cố gắng vượt khỏi hai thái cực thiên chấp là đoạn kiến và thường kiến.

VII. Kinh lượng bộ và Hữu ngã luận

Kinh lượng bộ (Sautrantika) là một bộ phái phát xuất từ Nhất thiết hữu bộ, không đồng ý như những nhà Hữu bộ là lấy Luận tạng (Abhidharmapitaka) làm căn bản mà trở về với nguồn gốc lấy Kinh tạng (Sutrapitaka) làm căn bản, thêm một phần ảnh hưởng của Độc tử bộ. Đại khái về chủ trương của những nhà Kinh bộ này theo Dị bộ tông tôn luận của Thế Hữu (Vasumitra), như sau:

“Họ bảo rằng các uẩn từ tiền thế chuyển biến đến hậu thế, do đó cũng có tên là Thuyết chuyển bộ. Họ chủ trương có Căn biên uẩn và Nhất vị uẩn...; chấp có Thắng nghĩa Bổ đặc già la”.
Và sách Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm của Khuy Cơ viết:

“Kinh bộ chủ trương có Thắng nghĩa Bổ đặc già la. Ở trong cấp bậc di sinh (chúng sinh) cũng có thánh pháp. Có Căn biên uẩn, có Nhất vị uẩn. Nhất vị uẩn tức là tế ý thức (ý thức vi tế). Ngoài ra, phần lớn chủ trương đồng với Nhất thiết hữu bộ”.

Những nhà Hữu bộ chủ trương sát na tương tục, không có một pháp nào lưu chuyển từ tiền thế đến hậu thế, nhưng cũng có sự tương tục của thực chất. Do đó được mệnh danh là Thuyết chuyển bộ.

Theo truyền thuyết Nam phương Thượng tọa bộ, bộ phái Sambauntika tức Thuyết chuyển bộ khác với Kinh lượng bộ. Có lẽ cả hai chỉ là sự phát triển giai đoạn trước và giai đoạn sau của Kinh bộ.

Uẩn có “Căn biên uẩn” và “Nhất vị uẩn”: Căn biên uẩn tuy niệm niệm sinh diệt, nhưng Nhất vị uẩn cũng gọi là Thắng nghĩa Bổ đặc già la lại là chủ thể cho sự tương tục từ tiền thế đến hậu thế. Uẩn hay ngã này cũng gọi là tế ý thức. Chủ trương này không khác với chủ trương Hữu ngã luận của những nhà Độc tử bộ. Vì Kinh bộ cho rằng ngoài ngũ uẩn phổ thông (Căn biên uẩn) còn có căn bản uẩn (Thắng nghĩa). Căn cứ trên lập trường này, Kinh bộ thành lập những chủng tử, huân tập, và có thể đã là tiên phong cho Duy thức học trong các thể tài này.

VIII. Tổng kết

Phật giáo Nguyên thủy đã chối bỏ quan điểm có một linh hồn như là tự thể bất biến đồng thời cũng chối bỏ luôn cả chủ trương Duy vật Tâm lý học, và thừa nhận hoạt động của tâm lý là một quá trình phức tạp. Điều này đáng kể là một thành tích quan trọng về vấn đề Tâm lý học cổ đại ở Ấn Độ. Tuy nhiên, đó không phải là Tâm lý học thuần túy, mà còn là “sinh mạng quan” theo kiểu Phật giáo nữa; nó không phải dừng lại ở Tâm lý học thuộc phạm vi kinh nghiệm thông thường mà lại được xây trên một quá trình liên tục vô thủy vô chung của con người. Nhưng, mối liên lạc cho một quá trình liên tục vô thủy vô chung như vậy là gì? Đức Phật chỉ trả lời rằng: Nghiệp, và Ngài không quy định rõ. Điều này phát sinh nhiều giải thích khác nhau của những nhà Phật học về sau. Tựu trung lại, học chia nhau làm hai khuynh hướng.
1. Chủ trương Cơ giới luận với lập trường vô ngã. Phái này thường hay lấy thí dụ vòng lửa để cắt nghĩa sự liên tục, hay như một thí dụ khác: lửa bén cháy từ cây củi này sang cây củi khác, tương tục vô cùng, và cố nhiên không có củi thì cũng không có lửa tồn tại, nên lửa không phải tồn tại như là tự thể bất biến.

2. Phái thứ hai, như những nhà Độc tử bộ chẳng hạn, dựa trên chủ thuyết “sinh cơ”, cắt nghĩa sự tương tục ở phương diện lưu động. Và đến chỗ này, Phật giáo có vẻ như tiến gần đến chỗ thừa nhận có linh hồn theo kiểu nhận thức phổ thông, mà thực chất của nó ở Phật giáo lại không phải là cố định theo kiểu phổ thông ấy.

Tác giả Thích Tâm Huyền
Tâm Hà Lê Công Đa (người Dịch)
Nguồn: phathoc.net/thu-vien/triet-hoc/

Wednesday, November 28, 2012

Nữ Thủ tướng Thái Lan "hút hồn" chính khách các nước

Bà Yingluck Shinawatra- người đã kết hôn và có 1 con, từ một doanh nhân đã trở thành nữ Thủ tướng đầu tiên của Thái Lan. Giới truyền thông Trung Quốc nói rằng tổ tiên của bà Yingluck Shinawatra phát tích từ huyện Phong Thuận thành phố Mai Châu tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, và là hậu duệ của người Khách Gia . Bà sinh năm 1967, ngoài sở hữu một vẻ đẹp về ngoại hình thì nụ cười và phẩm chất khiêm hòa đã khiến Vị nữ Thủ tướng này dành được cảm tình của hầu hết các chính khách trên thế giới.


Hiếm có dịp chủ và khách cùng cười hét cỡ thế này (trong dịp Tổng thống Mĩ Obama thăm chính thức Thái Lan tháng 11/2012)


Tổng Thống nước khách cười tươi rói trước dáng bộ thùy mị của Thủ tướng chủ nhà


và như thường lệ, bà Yingluck Shinawatra luôn dành được thiện cảm từ các chính khách phái mày râu


Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak vui mừng được gặp Thủ tướng Thái Lan bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tại Phnom Penh, Campuchia hôm 19/11


Tổng thống Pháp Francois Hollande chăm chú nhìn Thủ tướng Thái Lan quên cả nhìn về phía ống kính báo chí


Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan như bị hút hồn khi đứng cạnh Yingluck Shinawatra ngày 8/11/2012 tại Indonesia


Thủ tướng Đức ngỡ ngàng chào đón người đồng cấp và đồng giới từ Thái Lan


Bà Yingluck Shinawatra nỗi bật giữa các chính khách nam giới, bên trái là Thủ tướng Nhật Bản Noda, bên phải là Thủ tướng Campuchia Hunsen (dịp HH EAS tại Phnom Penhtháng 11/2012)


Thủ tướng Anh David Cameron cố tỏ vẽ "phớt ăng lê "nhưng cái bắt tay thì hơi quá chặt(?) khi đón người đồng cấp từ Thái Lan đến xứ sương mù


Gần gũi như Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan mà cũng tỏ ra bối rối...


Tổng thống Mông Cổ Tsakhia Elbegdorj đang cố rảo bước theo Thủ tướng Thái Lan bên lề hội nghị ASEM 6 tại Lào hôm 6/11/2012


Thủ tướng Nhật hình như phá lệ cuối đầu và ngậm miệng mà cười rõ tươi khi bắt tay nữ Thủ tướng Thái Lan


Thủ tướng nước chủ nhà Hunsen cười thật tươi khi đi cạnh người đồng cấp Thái Lan


Ngay một chính khách mạnh mẽ như Tổng thống Nga Putin thoáng chốc cũng tỏ ra bối rối


Bộ trưởng Kinh tế - thương mại và công nghiệp Nhật Bản Yukio Edano Yukio rất lấy làm hân hạnh được tiếp kiến nữ Thủ tướng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dường như đang suy nghĩ khi sánh vai cùng nữ Thủ tướng Thái Lan đến thăm chính thứcViệt Nam


Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cũng phải ngước nhìn... trong dịp thăm chính thức Thái Lan gần đây.

Nguồn: trankinhnghi.blogspot.com

TRƯỜNG LÀ GÌ ?

1/ Về khái niệm Trường trong vật lý 
Thật ngắn gọn, trường là dạng tồn tại của vật chất mà các tương tác cơ bản được thực hiện thông qua nó. Tương ứng với bốn dạng tương tác (TT) đã biết (TT hấp dẫn, TT điện từ, TT yếu và TT mạnh), ta có bốn loại trường: trường hấp dẫn, điện từ, mạnh và yếu.

2/ Về các kênh thông tin vật lý của cơ thể
Đến tận thập niên cuối của thế kỷ này (thời điểm sách được viết - success), những khả năng tiềm ẩn của con người vẫn được xem là không thể hiểu, và khái niệm trường sinh học đã được dùng như một biện pháp cứu cánh. Nhưng chúng ta đã hiểu gì về các "trường" vật lý - chính xác hơn là các kênh vật lý - của bản thân chúng ta?
Những tín hiệu điện của cơ thể, như điện tim chẳng hạn, đã được đưa vào thực hành y học từ lâu. Nói cách khác, điện trường của cơ thể là khái niệm không xa lạ. Nhưng từ trường tần số cực thấp, bức xạ hồng ngoại và bức xạ siêu cao tần, sự huỳnh quang hoá và các tín hiệu âm thanh cùng vi sinh quyển khí của cơ thể lại là những gì chưa quen thuộc. Lý do: các tín hiệu đó có cường độ vô cùng nhỏ yếu, khiến các kỹ thuật ghi đo gần đây mới nắm bắt được chúng. Xin đưa vài ví dụ:
Từ trường của não có độ cảm ứng từ cỡ 10 mũ -14 Tesla, trong khi giá trị tương ứng của từ trường trái đất là 10 mũ -5. Dễ hình dung phép đo một tín hiệu nhỏ hơn can nhiễu một tỷ lần (!) sẽ gặp những khó khăn gì.
Ví dụ khác là bức xạ hồng ngoại với công suất 10 mũ -12 W/cm vuông ở các đầu ngón tay, nằm ở vùng bước sóng 8 - 14 m. Ở một số người, công suất bức xạ hồng ngoại có thể đến 300W. Đáng chú ý là bức xạ đó được cơ thể tiếp nhận dễ dàng (ngưỡng cảm giác da là 10 mũ -14 W/cm vuông). Trong các hiện tượng thuộc về "Trường sinh học", vai trò của các cơ chế tiếp nhận, khuếch đại và xử lý tin như vậy, theo chúng tôi có thể là yếu tố quyết định.
Một thí dụ khác là khí công. Các nhà khoa học Đại học Vũ Hán đã tiến hành một thí nghiệm đặc biệt, được các nhà khoa học Mỹ khẳng định lại. Họ đặt hoá chất O-N-propyl-O-allylthiophosphoramide trong một chiếc hộp và cho nhà khí công vận công tác động từ bên ngoài. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân được đo trước và sau khi tiến hành thí nghiệm. Kết quả thật đáng kinh ngạc: phổ NMR thay đổi, cho thấy nhà khí công đã phát ra bức xạ điện từ! Còn động tác múa may của nhà khí công? Theo James Ma, giáo sư vật lý của Đại học Hong Kong, nhà khí công múa theo một nhịp độ xác định (tần số xác định) là để các photon của nước trong cơ thể hấp thụ năng lượng của trường địa từ theo cơ chế cộng hưởng từ hạt nhân! Chúng tôi xin bổ sung hai vấn đề:
+ Thứ nhất, các trường điện từ điều trị, trường địa từ và các trường sinh lý tác động cơ thể chủ yếu qua các cơ chế cộng hưởng (Cộng hưởng cyclotron, cộng hưởng Jacobson, cộng hưởng Schumann,... ) vì chúng có cường độ rất yếu.
+ Thứ hai, hiểu biết về nước cấu trúc trong cơ thể đã có bước phát triển về chất, từ một môi trường hỗn loạn sang một cấu trúc giả tinh thể phù hợp về cấu hình các đại phân tử sinh học.
Điều đó cho phép tạo cấu trúc "đơn vị sinh học - cơ chất nước" như một không - thời gian sinh học đặc biệt, để thực hiện các hiện tượng tập thể và cộng hưởng, có thể là không thể thiếu trong các hiện trượng "siêu nhân".
3/ Về trường sinh học theo quan điểm Vật lý lượng tử
Nói tới trường là nói tới các lượng tử của trường. Ví dụ lượng tử của trường điện từ là photon và tương tác giữa các điện tích chẳng hạn, được quy về sự trao đổi photon giữa chúng. Nếu công nhận trường sinh học, cần chỉ ra lượng tử của nó - một "hạt cơ bản sinh học" nào đó khác với những hạt cơ bản đã biết. Hiện chưa có cả mô hình lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm cho thấy một hạt như thế.
Có thể phản bác bằng lập luận: không ai nghi ngờ sự tồn tại của trường hấp dẫn, nhưng lượng tử của nó - các graviton - đâu đã được tìm ra.
Có những khác biệt rất cơ bản ở hai trường này. Trường hấpo dẫn có mô hình toán học hoàn chỉnh, được đa số giới khoa học thừa nhận (lý thuyết tương đối tổng quát của Einstein), còn trường sinh học thì không.
Cơ bản hơn là, trường hầp dẫn vô cùng yếu (xin đưa con số so sánh: nếu cường tương tác mạnh là 1, thì trường điện từ là 10 mũ -4, trường tương tác yếu là 10 mũ -20, còn trường hấp dẫn là 10 mũ -40!), vì thế hiện chưa ghi nhận được các lượng tử của nó. Trong khi đó, trường sinh học có cường độ tạm xem là đủ lớn, có thể viển di sinh học cơ mà (bẻ cong thìa hoặc di chuyển đồ đạc bằng ý nghĩ - success). Tại sao không thể tìm được "hạt cơ bản sinh học" đó?
Và trong cơ thể, chỉ mới thấy các hạt "thông thường" chung cho cả thế giới sống và không sống như các điện tử, proton, neuron... mà thôi. Trên thực tế, chưa bao giờ giới khoa học quan tâm tới một hạt như thế. Đâu là lối thoát cho "trường sinh học"
Một phản bác khác: vật lý hạt cơ bản đâu đã đạt tới chân lý cuối cùng. Bằng chứng: điện tử, proton,... không còn được xem là cơ bản nữa, mà là những hạt có cấu trúc từ các quark với điện tích phân số. Chúng vẫn chưa được tìm ra. Liệu có một quark sinh học tồn tại trong cơ thể không nhỉ? Về hình thức lập luận này có lý.
Hãy cho rằng có một "quark sinh học" khác quark thường. Khi đó không hiểu tại sao các hạt cơ bản từ hai loại quark này không có điểm khác biệt. Vì các quark chỉ cấu trúc cơ thể một cách thứ cấp qua các hạt cơ bản, nên nếu các hạt cơ bản từ hai loại quark không khác nhau, có thể kết luận "quark sinh học" không có vai trò gì trong cơ thể sống.
Có thể có những lập luận khác mà logic dễ gần tới mức siêu hình. Ví dụ lập luận: chỉ tỏng các hiện tượng đặc biệt, quark và hạt cơ bản "sinh học" mới thể hiện bản chất của mình. Chúng tôi không có khả năng phân tích logic nội tại của những lập luận như vậy. Chỉ xin nêu một hệ quả.
Chúng ta đều biết nhiều chất vô cơ của thế giới không sống có ảnh hưởng tới tâm sinh lý, tới hành vi con người, tham gia cấu trúc hoá và chức năng hoá hệ sống. Ví dụ các nguyên tố vi lượng. Phải chăng khi vào cơ thể, dưới tác động của một "trường sinh học", một "sức sống" đặc biệt mà chúng từ thế giới "chết" trở nên "sống"? Liệu đó có phải là "linh hồn" như các tôn giáo vẫn quan niệm hay không? Câu trả lời xin nhường cho các học giả.
4/ Kết luận
- Vấn đề cốt tử cuối cùng: vậy cái gì phân biệt thế giới sống với thế giới không sống? Một câu hỏi tương tự dễ trả lời hơn là, ở mức độ tổ chức nào, cơ thể toàn vẹn, cơ quan, tế bào, phân tử, dưới phân tử hay ở mức hạt cơ bản, hệ sống bắt đầu thể hiện "đặc trưng sống" của mình? Và để giải thích các hiện tượng sống, đã cần một "vật lý mới" hay chưa?
- Chỉ xin kết luận bằng một nhận định, hiện chưa chín mùi cho sự xuất hiện một vật lý mới, khi giới hạn cuối cùng của vật lý cũ trong việc giải thích bản chất thế giới sống vẫn chưa đạt tới.

Dương Tử - Sưu tầm và biên soạn

MƠ VỀ EM



Anh chẳng thích hoa

Bởi... em đã biết
Anh lại thích biển
Có sóng bạc đầu
Vỗ ru bờ cát
Anh cũng thích mây
Gió thổi mây bay
Làm cơn mưa nhỏ
Anh mong là chim
Như điều em ước...

Dương Tử

ARISTOLE VÀ ÐỨC PHẬT (Bốn đại - Bảy đại)

Aristole (*) nói rằng tất cả vạn vật trong vũ trụ đều được bốn chất căn bản tạo thành: Ðất, nước, gió. lửa. Những chất này hoạt động nhờ hai lực: Hấp lực khiến đất và nước chìm xuống, và Tính phiêu bồng khiến gió lửa lên cao.

Aristole cho rằng người ta có thể chia cắt mãi mãi một vật thành những phần tử nhỏ hơn. Trái lại, người ta Hy lạp cho rằng Nguyên tử không thể chia cắt được.


Trong bài “Tứ Ðại Cực Vi”, trang 52, 53, và Câu Xá luận Cương yếu, bản dịch của Hòa thượng Thích Ðức Niệm nói rằng “Vật chất tức là sắc pháp, bổn chất của nó do gì tạo thành? Cái tạo thành vật chất gọi là cực vi mà trước ngày hoặc ra đời, người ta thường gọi là lân trần. Cực vi là đem vật chất phân tích thành những phần tử nhỏ vi tế không còn phân tích được nữa. Nếu đem cực vi phân tích nữa thì thành không. Trường hợp này, Phật học gọi là tích không quán tức quán cái không thể tích ...”

Như vậy, lời Phật và sự nghiên cứu của người Hy lạp đều giống nhau ở điểm này.

Bốn đại là gì? Bốn đại (hay Tứ đại) là Ðất, nước, gió, lửa (Ðịa, thủy, hỏa, phong).

Bảy đại kia là Ðịa đại, Thủy đại, Hỏa đại, Phong đại, Kiến đại, Thức đại và Không đại (tức Hư không).

Có khi người ta gọi là Ðại chủng. Ðại nghĩa là chu biến khắp nơi, và chủng là nương nhau mà chu biến tất cả mọi vật.

Ðối với con người, Ðất tượng trưng cho xương thịt, Nước cho máu mủ, Gió cho hơi thở, và Lửa cho sự hô hấp (Combustion lente). Với tâm thức con người được thăng hoa nên có thêm hai đại nữa là Kiến đại và Thức đại.

Bảy đại là do Chân thức (Diệu tâm) chuyển thành Hiện thức (Thức Sơ Năng Biến), rồi chuyển thành bảy đại. (Những danh từ Kiến đại, Thức đại, Chân thức, Diệu Tâm, Thức Sơ Năng Biến v.v... thuộc về Duy thức học. Nếu nói hết, bài quá dài. Tôi sẽ trở lại trong một bài khác).

Giờ chúng ta hãy xét từng đại một.

“Ðịa đại” (Ðất): Lấy tánh cứng làm thể, lấy sự duy trì làm dụng. Mọi vật đều có sức đối kháng nhau. Nó hay hổ tương giữ gìn chất thể của nó gọi là tác dụng địa đại.

Thủy đại (Nước): là lấy tánh ướt làm thể, lấy nhiếp thủ làm dụng. Sự vật hay hổ tương tiếp dẫn, cố dịnh, tức là tác dụng của thủy đại.

Hỏa đại (Lửa): Lấy tánh ấm làm thể, lấy chín làm dụng. Như trái cây, vật chất hay chín, gạo hay thành cơm. Ðây tức là tác dụng của lửa.

Phong đại (Gió): Lấy tánh động làm thể, lấy sự tăng giảm nhiều ít làm dụng. Sự vật hay chuyển động, sanh trưởng, đây tức là tác dụng của phong đại ...

Sự, tánh, dụng của tứ đại tóm lược như biểu đồ dưới đây:

Sự tứ đại - đất, nước, gió, lửa - Mắt có thể thấy.

Tánh tứ đại - cứng, ướt, ấm, động - thực – thân xúc chạm có thể biết.

Dụng tứ đại - giữ, nhiếp, chín, sanh trưởng ...”

Nếu so sánh lời của Aristole với lời dạy của Ðức Phật, quí vị sẽ thấy có sự tương đồng khắng khít.

Aristole: “Tất cả vạn vật trong vũ trụ đều được bốn chất căn bản tạo thành: Ðất, nước, gió, lửa.”

Kinh Lăng Nghiêm, trang 253, Ðức Phật đã giải thích vạn vật trong vũ trụ cùng được cấu tạo bằng bốn chất: Ðất, nước, gió, lửa.

Aristole: “Những chất này hoạt động nhờ hai lực: Hấp lực khiến đất và nước chìm xuống, và Tính phiêu bồng khiến gió lửa lên cao”.

Kinh Lăng Nghiêm, trang 254, Ðức Phật dạy “Vô minh nghiệp thức đã sinh ra đất, nước, gió, lửa. Suy theo bốn chỗ ở: Núi, biển, rừng, đất thì công tích của đất, nước, gió, lửa càng rõ ràng hơn: Lửa xông lên, nước giáng xuống tạo thành thế giới. Chỗ ướt và thấp làm biển lớn, đó là chỗ chúng sinh dưới nước. Còn chỗ khô cao hơn thì làm đồi, làm cồn; đó là chổ ở của chúng sinh trên quả địa cầu ...”

Xem như vậy, một vị hiền triết ở trời Âu và một bậc Ðại Giác ở trời Á đều nói đúng như nhau tuy cách xa nhau trên một thế kỷ.

Thế mà có một số người không đọc và không tin kinh Phật vì họ cho rằng kinh Phật thường bịa đặt và “tam sao thất bản”. Căn cứ vào sự kiện nói trên, chúng ta thấy rằng Ðức Phật và kinh Phật đâu có nói những điều hư vọng?

Phật dạy “Thân người khó đạt, Phật pháp khó tìm”.

Lấy lại được thân người rất khó nếu chúng ta không giữ ngũ giới. Khi chết, chúng ta sẽ đầu thai vào bụng con chó, con con heo, con dê, con bò ...

Ngày xưa Thầy Ðường Tăng phải đi thỉnh kinh bên Tây Trúc gặp bao nỗi gian truân. Một nữ Phật tử ở nước ngoài nói rằng “Ở Cali nhiều Chùa, nhiều Thầy, nhiều Kinh sách. Còn ở nơi chúng tôi không Chùa, không Thầy, và có ít Kinh sách. Nếu có điều kiện, chúng tôi sẽ di cư sang Cali liền”.

Còn như bây giơ, chúng ta đâu có thiếu điện nước, vì nước đầy rẫy khắp nơi. Tỉ dụ chúng ta vào sa mạc, nếu đổi vài giọt nước lấy vài lạng vàng, chúng ta sẽ không chối từ.

Còn ở đây, nhiều chùa, nhiều thầy, nhiều kinh sách mà chúng ta không thèm đến chùa, không thèm gặp thầy, không thèm đọc kinh sách chỉ vì không tin kinh Phật, hay chỉ vì “tam sao thất bản”.

Ðiều này trong kinh Ðại Bát Niết Bàn gọi là “ma sự”, nghĩa là số người hoài nghi đó đã bị một sức mạnh vô hình nào đó cản trở không cho theo chánh pháp của Như Lai mà chỉ nghe theo tà sư, ngoại đạo. Kết quả là khi chết cả thầy lẫn trò đều đọa địa ngục, phí công cả một đời tu hành.

Cũng có thể, ở những đời trước, những vị này đã lạc vào thần đạo hay ma đạo. Ðến đời này, các “đồng chí”" cũ lại tiếp tục o bế người anh em về làm ma dân: Ma ông, ma bà, ma con, ma cháu ...

Có mấy loại ma?

Theo cuốn Niệm Phật Thập Yếu của Hòa thượng Thích Thiền Tâm, trang 198-200, có ba loại ma: (1) Phiền não ma hay Nội ma, (2) Ngoại ma, và (3) Thiên ma.

Loại thứ nhất là những thất tình lục dục, tham sân si, tà nghi, mạn kiến ... khiến con người ta mê muội, tàn ác, điên đảo, và vô luân.

Ngoại ma là những loài quỉ thần bên ngoài thường hay quấy phá người tu hành. Loại này lại chia làm ba loại: Bố ma, Ái ma, và Não ma.

Bố ma là loại ma ưa khủng bố, thường biến thành cọp, sói, rắn, hay những hình ác quỉ khiến người ta kinh sợ. Ái ma là loài ma khích động lòng ái dục khiến ngưới ta tham đắm dục lạc. Chúng hóa thành những mỹ nữ lõa lồ, dâng hiến sơn hào hải vị, có khi hóa thành cha mẹ anh em cho đến thân Phật, Bồ Tát để khuyến dụ theo chúng. Não ma là loại ma chuyên làm não loạn người tu hành. Chúng biến thành những loài tinh thú xuất hiện từng giờ, hoặc hóa thành những loài sâu trùng bò trên thân mình, chui vào lỗ tai, miệng, mũi ... để làm não loạn tinh thần khiến người tu hành phải thối chí. Thiên ma là loại ma ở cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, có phước báo, vui hưởng ngũ trần. Các hành giả tịnh tu thường bị loại ma này làm não loạn như hiện ra những hình tướng ghê rợn để khủng bố, hoặc tướng nam nữ xinh đẹp để quyến rũ. Chúng khiến người ta ham muốn danh lợi thế gian, tính tình thất thường: Thoạt vui, thoạt buồn, hay cười, ưa ngủ, dễ thương xót, xúc cảm ...

Trang 192-194, tác giả nói về Biện Ma Cảnh, hay Cảnh giới ma mà người niệm Phật hay tu thiền thường thấy:

1. Những cảnh không nhân quả không phù hợp như quán tướng này thấy tướng khác, và những cảnh hiện ra không giống như trong kinh đều là những cảnh ma.

2. Các loài ma dù có hiện tướng Phật đến đâu, hành giả vẫn cảm thấy xao động, nóng nảy, không yên.

3. Ánh sáng của Phật làm cho ta cảm thấy êm dụi, mát mẻ; ánh sáng của ma làm cho ta chói mắt, bứt rứt, không yên.

4. Lời thuyết pháp của Phật, Bồ Tát hợp với kinh điển và thuần theo chân lý. Lời của ma trái với lẽ phải, không đúng như kinh Phật đã dạy.

5. Nếu thấy những cảnh ma nói trên, nên tụng Bát Nhã Tâm Kinh hoặc trì chú, niệm Phật; những cảnh ma đó sẽ biến mất.

Ðến đây, tôi sực nhớ đến một truyện ma giả Phật như sau:

Một nhà tu hành rất kính phục sư phụ mình vì yên trí sư phụ là Phật. Một hôm ông yêu cầu sư phụ cho ông thấy sư phụ hiện tướng Phật. Sư phụ đồng ý và dặn rằng hễ thấy ông hiện tướng Phật thì không được lạy.

Hành giả nhắm mắt bỗng thấy đức Phật ngồi tòa Sư tử, uy nghi, lẫm liệt. Nhìn kỳ thấy đúng diện mạo của sư phụ mình. Ông vừa sợ hãi vừa kính phục quên lời sư phụ dặn vội quỳ xuống vái lạy. Bỗng sư phụ cùng cảnh Phật biến mất.

Tóm lại, muốn phân biệt chánh pháp và tà đạo, xin đọc lời khuyên sau đây của Trí Giả Ðại sư Giáo chủ Tông Thiên Thai sáng lập tại núi Thiên Thai bên Tàu, thế kỷ thứ sáu, như sau:

“Có ba thứ ngoại đạo:

(1) Chánh cống ngoại đạo. Họ không dùng bảng hiệu của Phật giáo mà tự dùng bảng hiệu của họ. Họ cũng tu Thập Thiện, tu thiền, và cũng được lên Trời.

(2) Ngoại đạo dùng bảng hiệu Phật giáo. Nhưng họ tu theo ngoại đạo. Những người này có tội đọa địa ngục. Nếu gặp chánh pháp, họ có thể trở lại chánh pháp. Cũng như đệ tử của Phật như Mục Kiều Liên, Xá Lợi Phất cũng là lãnh tụ ngoại đạo.

(3) Học Phật pháp hành ngoại đạo. Họ không biết là ngoại đạo vì họ thông suốt kinh điển, giảng kinh, thuyết pháp hay lắm! Tín đồ cũng nhiều lắm nên tự cho mình là hay quá rồi! Thông suốt kinh điển Ðại thừa liễu nghĩa là chánh pháp rồi còn chê vào đâu? Nhưng mà họ hiểu lầm cái ý của Phật để dạy cho chúng sanh. Cái đó tội còn nặng hơn ngoại đạo thứ nhì nữa.

Phật gọi chúng ta là “con trùng sư tử”. Con sư tử chết rồi, các thú khác không dám lại gần ăn thịt. Khi thịt sư tử thúi rồi sanh ra những con trùng nó ăn thịt con sư tử chứ những thú khác không dám lại gần để ăn thịt con sư tử.

Loại ngoại đạo thứ ba là loại tiêu diệt Phật pháp”.(**)

Muốn phân biệt chánh tà, điều rất giản dị là nên nghe giảng kinh, nghe băng, đọc kinh sách để thấu hiểu lẽ đạo. Lúc bấy giờ, quí vị sẽ thấy rõ đâu là tà chánh? Những gì Phật không dạy không nên theo vì Phật đã giác ngộ nên đã chỉ cho chúng ta con đường tới giác ngộ. Nếu làm khác đi, tu khác đi, chẳng bao giờ thành công cả.

Phật dạy “Truyền đăng tục diệm”, nghĩa là mồi đuốc trí huệ của mình vào đuốc trí huệ của Phật để tự soi đường mà đi. Nếu không đốt đuốc soi đường, chúng ta sẽ đi trong đêm tối, mà đã đi trong đêm tối, tất nhiên chúng ta phải lạc vào ma đạo hay thần đạo.

Cửa Phật từ bi rộng mở: Ưng Cưu Ma La (Vô não) đã giết 999 mạng người, và Dũng Thí tỳ kheo phạm tội A Ba Di (Sắc và Dâm) mà khi hồi đầu theo Phật cũng đã đắc quả.

Mục Kiền Liên, lãnh tụ ngoại đạo, và anh em U Lâu Ca Diếp thờ thần lửa cũng đã thành Phật.

Tội lỗi, nghiệp chướng cũng như bóng đêm. Phật dạy “Một căn nhà đen tối một ngày một đêm, hay đen tối mười ngàn năm, hay một triệu năm; khi đèn đốt lên, đen tối sẽ hết liền”.

Tôi cũng xin phép nhắc lại bốn tội địa ngục như sau:

“Phá hoại luật nghi

Phỉ báng Ðại thừa

Cuồng vọng thuyết pháp

Hư thi tín thí”.

Câu cuối cùng có nghĩa là thọ lãnh sự cúng dàng của bá tánh mà không làm đúng bổn phận của người tu sĩ.

Xin qúi vị còn hoài nghi hãy thức tỉnh trở về với chánh pháp của Như Lai.

Chú thích
(*) Nhà hiền triết Hy lạp (384-322 BC), học trò của Plato, và trợ giáo của A Lịch Sơn Ðại Ðế (Alexander The Great), đã viết nhiều sách về luận lý, triết lý, khoa học thiên nhiên, chính trị, và thơ văn.

(**) Trích băng giảng (Tổ sư Thiền), băng 7, mặt A của Hòa thượng Thích Duy Lực.

Minh Giác Nguyễn Học Tài

Tuesday, November 27, 2012

Việt Nam có hai trong 10 nữ tướng vĩ đại nhất thế giới

(Kienthuc.net.vn) - Những nữ tướng vĩ đại được miêu tả là các chiến binh tuyệt vời, nhà lãnh đạo tài ba trong lịch sử nhân loại. Đồng thời, họ cũng trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho những nghiên cứu văn học, lịch sử, văn hóa dân gian, thần thoại và phim ảnh.
Dưới đây là 10 nữ tướng vĩ đại nhất được vinh danh trong lịch sử:

10. Gudit

Nữ tướng Gudit.

Gudit (còn gọi là Yodit hay Judith) là một nữ tướng tài ba của Ethiopia. Bà đã lãnh đạo quân lính tiêu diệt con cháu của Nữ hoàng Sheba, triều đại Axumite. Những câu chuyện về cuộc đời của Gudit chủ yếu được người ta kể lại cho nhau từ đời này sang đời khác và được ghi lại rất ít trong sử sách.
Gudit bắt đầu lãnh đạo cuộc nổi dậy vào năm 960 sau công nguyên AD. Sau khi một cuộc nổi dậy thành công, Gudit đã trị vì đất nước trong khoảng 40 năm và câu chuyện về những chiến thắng vang dội của bà vẫn được người Bắc Ethiopia truyền tụng muôn đời.
9. Triệu Thị Trinh

Bà Triệu, nữ anh hùng dân tộc của Việt Nam.

Triệu Thị Trinh (hay còn gọi là bà Triệu) là nữ tướng Việt Nam đã lãnh đạo thành công trận chiến chống trả quân Ngô xâm lược đất nước. Bà Triệu từng tuyên bố với kẻ địch rằng, bà sẽ chiếm lại đất nước, đánh đuổi quân xâm lược của Trung Quốc và không chịu hạ mình làm tì thiếp cho bất kỳ ai.
Không chịu sống cảnh nô lệ khổ nhục, lớn lên bà bỏ trốn lên rừng và tập hợp một đội quân gồm hơn 1000 tráng sĩ. Bà Triệu đã chỉ huy quân lính ngăn chặn thành công ít nhất 30 cuộc tấn công của quân Ngô. Người ta kể lại, bà Triệu thường cưỡi voi và mang trên người hai thanh kiếm khi xông pha ra trân mạc.
8. Boudica

Boudica, nữ tướng của bộ tộc Iceni trên đảo Anh.

Boudica là nữ tướng của bộ tộc Iceni trên đảo Anh. Bà đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại đế chế La Mã. Cuộc đấu tranh nổ ra khi La Mã phá vỡ hiệp ước liên minh và bà đã đứng ra chỉ huy quân lính. Khi chính quyền địa phương phát động một chiến dịch quân sự ở miền bắc xứ Wales, Boudica nhanh chóng tận dụng cơ hội này đánh đuổi quân đoàn Hispana IX. Londinium (ngày nay là London) cũng bị bao vây và ước tính khoảng 80.000 người thiệt mạng trong cuộc nổi loạn. Boudica mặc dù rất anh dũng đấu tranh nhưng vẫn phải cúi đầu chịu thua trước sự vượt trội về lực lượng của kẻ thù.
Danh tiếng của Boudica vang dội trong suốt thời kỳ Victoria và bà vẫn luôn là biểu tượng nữ anh hùng dân tộc của người dân Anh.
7. Hai Bà Trưng

Hai Bà Trưng, nữ tướng tài ba của dân tộc Việt Nam.

Hai Bà Trưng tức chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị, là những nữ tướng tài ba của dân tộc Việt Nam. Hai Bà Trưng đã chỉ huy quân lính trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược từ Trung Quốc. Hai nữ chiến binh thường cưỡi hai con voi chiến lớn, dẫn đầu các đội quân chống lại kẻ thù.

6. Artemisia I

Artemisia I, nữ tướng Ba Tư.

Artemisia I của Caria là một trong những đồng minh và chỉ huy Xerxes (Ba Tư) trong chiến dịch quân sự và bà được nhớ tới nhiều nhất bởi tài lãnh đạo trong trận Salamis. Bà tự mình đi khuyên các vua Ba Tư (Xerxes) mở các đợt tấn công từ theo đường bộ và thủy để phá vỡ đội tàu của Hy Lạp. Tuy nhiên, các vua Ba Tư đã phớt lờ ý kiến của bà và chọn tấn công các tàu Hy Lạp bằng đường thủy.
Artemisia I tham gia cuộc chiến với nhiệm vụ dẫn đầu một đội 5 tàu và chiến đấu hết sức dũng cảm. Ba Tư đã phải chịu một thất bại lớn trong cuộc chiến và lúc này Xerxes đã phải nghe theo lời khuyên của Artemisia rút quân về Tiểu Á.
5. Ahhotep I

Ahhotep I là một nữ hoàng Ai Cập.

Ahhotep I là một trong những nữ hoàng Ai Cập. Bà từng cùng với chồng, Pharaoh Seqenenre Tao cai trị đất nước. Bà đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập triều đại vào thế kỷ 18 ngay sau cái chết của cha. Sau khi đánh đuổi những kẻ chiếm đóng Hyskos ra khỏi Ai Cập, Ahhotep I đã mở đường cho Kamose Ahmose I và thống nhất Ai Cập.
Mộ của Ahhotep I ghi nhận, bà đã lãnh đạo quân đội đánh bại kẻ thù và được trao tặng Huân chương Valor vì tài lãnh đạo và lòng dũng cảm trong chiến đấu. Người dân Ai Cập cổ đại đã phong bà là nữ hoàng chiến tranh và tượng đài của bà được trưng bày tại đền thờ Amun-Ra để ghi nhớ những thành tích quân sự.
4. Tamar The Great

Tamar, nữ tướng của Georgia.

Tamar The Great là người cai trị của chế độ quân chủ Georgia vào thế kỷ 13. Bà là một nữ tướng xuất sắc trong lịch sử nước nhà. Những ảnh hưởng chính trị và quân sự của bà đã khiến các quốc gia Hồi giáo láng giềng phải quy phục. Bà nắm quyền kiểm soát trực tiếp toàn bộ hoạt động của quân đội Gruzia. Thời đại cai trị của Tamar hiện được coi là kỷ nguyên vàng trong lịch sử Gruzia, đạt đến đỉnh cao của sức mạnh văn hóa, kinh tế và chính trị. Tamar đóng vai trò quan trong trong việc tìm ra Đế chế Trebizond và sau đó sáp nhập thành lãnh thổ rộng lớn.
3. Zenobia

Zenobia, nữ tướng của đế chế Palmyrene.

Zenobia là nữ tướng của đế chế Palmyrene trong thế kỷ 3 sau công nguyên. Bà đã lãnh đạo thành công một cuộc nổi dậy chống lại sự xâm chiếm của La Mã xung quanh Syria. Ngoài ra, bà còn mở rộng lãnh thổ như Ai Cập ở phía nam và Ancyra (hiện đại Ankara) ở phía bắc. Bà chiếm được các tuyến đường thương mại quan trọng từ quân La Mã và đánh đuổi quân đội La Mã khỏi lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, Zenobia đã phải chịu một thất bại nặng nề trong trận chiến với quân đội kỳ cựu Aurelian ở Antioch, đặt dấu chấm hết cho đế chế của bà.
2. Joan of Arc

Nữ tướng Joan of Arc (Pháp)

Joan of Arc khẳng định, bà nằm mơ thấy Chúa nói với mình rằng, bà có thể chiếm lại những vùng đất quê hương bị nước Anh chiếm đóng. Do vậy, bà đã đến gặp Thái tử Charles VII, vị vua chưa đăng quăng của Pháp để yêu cầu được đi cứu viện thành Orleans. Sau đó, bà đã lãnh đạo quân đội của vua Charles VII đến bao vây thành Orleans trong vòng 9 ngày và giành thắng lợi. Chiến thắng vang dội của Joan phần nào giúp vua Charles VII được chính thức kế thừa ngai vàng.
Mặc dù là một nữ tướng, Joan of Arc không được nắm quyền, bà đã bị trục xuất khỏi hàng ngũ của quân đội Pháp và bị xử lý theo kỷ luật quân đội khi mắc lỗi. Joan of Arc bị người Anh bắt giữ, tòa án giáo hoàng kết tội là phù thủy và đem thiêu sống. Nhiều năm sau, bà được minh oan và được phong thánh.
1. Phụ Hảo

Nữ tướng Phụ Hảo (Trung Quốc).

Phụ Hảo là một trong những phi tần của vua Vũ Đinh nhà Thương, cũng là một nữ tướng. Người ta phát hiện mộ của bà ở tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Những chữ viết được khắc trên bia mộ cho hay, bà từng lãnh đạo nhiều chiến dịch quân sự, giúp triều đại nhà Thương đánh đuổi kẻ thù truyền kiếp chỉ trong một trận chiến duy nhất.
Thống lĩnh hơn 13.000 quân lính, năm 1200 trước công nguyên, Phụ Hảo là nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại nhất của Trung Quốc.
Nguyên Thảo (theo Wiki, Listfave)

Một Công Án: Đừng Sợ Chết

Hòa thượng Thích Mật Hiển, trú trì chùa Trúc Lâm Huế, thường dạy chúng tôi: “Làm thầy tu thì đừng sợ chết; sợ chết thì đừng làm thầy tu”.
Lời dạy ấy của Ngài, chúng tôi xem như là một công án của thiền tập. Một công án không phải treo lơ lững ở nơi thiền đường hay nơi một công đường, mà treo ngay trong sự sống chết hàng ngày của mỗi chúng ta.
Sợ chết, ta sẽ sống không ra hồn; sợ chết ta sẽ làm tiêu hao năng lượng của sự sống; sợ chết ta sẽ không có khả năng sống và sống mất hết ý nghĩa.
Không sợ chết, can đảm của sự sống đã và đang có mặt trong ta. Ta sẽ nói và làm được tất cả những gì cần nói và cần làm cho ta và cho tất cả mọi người.
Không sợ chết, thì không còn có bất cứ cái gì ở trên đời nầy nữa để sợ, khiến ở trên đời không còn có ai và không còn có bất cứ thế lực nào, có thể dọa dẫm được ta và buộc ta phải hành động theo điều mà ta không muốn và nói theo điều mà ta không ưa.
Không sợ chết ta sẽ khám phá ra được những điều mới mẻ và kỳ diệu trong sự sống và ngay cả trong sự chết.
Ngày xưa đức Phật dạy đệ tử của Ngài, hãy đến nơi những nghĩa địa để quán chiếu sự chết của người khác, khiến thấy rõ sự thật sống chết của mọi người và của chính mình.
Hạnh phúc của con người không phải là sống hay chết, mà thấy được sự thật của sống và chết, để sống và chết đều có tự do.
Không sợ chết không phải là sống liều mạng, không phải là sống bất cần đời, mà sống có can đảm và thể hiện sự sống đầy can đảm ấy, để hiến tặng cho đời và can đảm công bố sự thật về sống và chết cho người đời biết, để họ sống và chết ở trong sự can đảm không hèn hạ.
Sống không hèn hạ, con người mới có đủ phẩm chất cao quý để tiến về phía trước, vượt qua những thác ghềnh của cuộc đời để thăng hoa sự sống. Sống can đảm, ta mới vượt qua được những thất bại để đi đến thành công. Thành công là phần thưởng dành cho những ai có đời sống can đảm và nó không hề đến chung sống với những kẻ nhu nhược hèn yếu.
Sống không sợ chết, có nghĩa là chấp nhận chết để sống và sống có ý nghĩa. Sống và chết, thì lúc nào và ở đâu cũng có trong ta và quanh ta, biểu hiện qua muôn ngàn hình thức sinh động khác nhau, nên ta chỉ cần sống, mà không cần bảo vệ sự sống và cũng không cần chống lại sự chết.
Bảo vệ sự sống và chống lại sự chết không phải là những tư duy và hành động của người lớn, mà tư duy và hành động của người lớn là can đảm sống và can đảm chết. Can đảm sống với những gì tốt đẹp và can đảm chết với những gì tốt đẹp đó.
“Không sợ chết” là một công án, mà vị Thầy của chúng tôi đã truyền trao cho chúng tôi trực tiếp từ sự sống, mà không phải từ nơi những hội thảo hay từ nơi những buổi pháp đàm ở các thiền đưỡng hay nơi những buổi rao giảng ở các học đường!
Không sợ chết là một công án mà chúng tôi luôn luôn thiền tập, để vượt qua khỏi những gì hèn hạ trong cuộc đời nầy.

Thích Thái Hòa

Bí ẩn cơ thể người: Không có não nhưng vẫn sống

Phải chăng tư duy của con người đến từ linh hồn, còn bộ não chỉ là một cái máy xử lý thông tin từ đó chuyển tới mà thôi? Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải xem lại toàn bộ hiểu biết về bản chất và lịch sử của sự sống và nhân loại.
>> Những bức ảnh hiếm về gà không đầu vẫn sống
Trong lịch sử y học thế giới đã từng ghi lại hàng trăm trường hợp sống với cái sọ rỗng theo đúng nghĩa đen, tức là không có não bên trong. Những người này không có não hoặc bộ não đã bị hủy hoại hoàn toàn. Thế nhưng họ vẫn sống và làm việc như những người bình thường.

Mới đây, tạp chí y học Lancet của Pháp đã đăng một bài báo nói về một trường hợp kỳ lạ: Bác sĩ Lionel Feullet ở bệnh viện Timone (Marseille) vô cùng kinh ngạc khi phát hiện một người đàn ông 44 tuổi, đang sống bình thường như những người khác nhưng có một bộ não teo nhỏ đến mức gần như là không có

Người đàn ông đã có vợ và 2 con này nhập viện vì ông cảm thấy chân trái bị yếu. Sau khi chụp cắt lớp (CTscan) và hình ảnh cộng hưởng từ (MRI), bác sĩ thấy não thất của ông nở rộng, trong khi não (tức chất xám và chất trắng) thì lại chẳng thấy đâu.

Thực tế bệnh nhân này đã bị tràn dịch não từ khi mới 6 tháng tuổi. Như vậy, có thể trong một thời gian rất dài người đàn ông này đã sống với cái đầu rỗng. Bác sĩ Feuillet nói: “Sự thiếu não bộ đã không hề cản trở sự phát triển của ông ta”.

Điều gây sự chú ý là những trường hợp kỳ lạ giống như vậy không phải quá hiếm. Năm 1935, trong khi điều trị cho một sinh viên khoa toán Trường đại học Sheffield, Anh hay bị ốm vặt. Khi chụp CAT – scan, giáo sư Lorber phát hiện thấy người thanh niên này hoàn toàn không có não.

Lẽ ra 2 bán cầu não phải lấp đầy hộp sọ với độ sâu 4 – 5cm, nhưng sinh viên này chỉ có 1mm mô não phủ trên đỉnh cột sống. Chẳng ai hiểu bằng cách nào mà anh ta vẫn sống bình thường và còn có chỉ số IQ tới 126, học rất giỏi, từng đạt học vị danh dự ngành toán học. Năm 1970, người thanh niên này mới qua đời. Khi mổ tử thi, một lần nữa các bác sĩ đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy ông ta không hề có não.

Giáo sư Lorber cho biết ông đã gặp không ít trường hợp người không có bán cầu não mà vẫn rất thông minh và giỏi giang. Ở một số người tuy não bộ gần như không có nhưng chỉ số IQ của họ vẫn đạt tới 120.

Một điều kỳ lạ nữa là có những người bị tổn thương não nghiêm trọng nhưng vẫn sống. Theo tài liệu lưu trữ y học, vào năm 1936 vua Ludwig của xứ Bavaria ra lệnh xử tử Dietze von Schaumburg cùng 4 đồng phạm vì âm mưu nổi loạn.

Theo phong cách hiệp sĩ, vua cho Dietze nói ra một điều ước cuối cùng. Trước sự ngạc nhiên của những người chứng kiến, Dietze yêu cầu toàn bộ tử tù xếp thành hàng, mỗi người cách nhau 8 bước và xin được chết đầu tiên. Dietze khẳng định dù không còn đầu ông vẫn có thể chạy qua mặt những người tử tù kia và nếu làm được như thế thì nhà vua hãy tha mạng cho những người còn lại.

Nhà vua nghe xong liền đồng ý. Dietze quỳ xuống và đưa đầu vào máy chém. Đúng như lời nói, sau khi đầu rơi xuống, Dietze vẫn đứng dậy và chạy trước sự sững sờ của mọi người. Dietze chỉ gục ngã khi chạy qua người cuối cùng trong hàng. Nhà vua buộc phải thực hiện lời hứa và tha chết cho những người còn lại.

Tạp chí Y học New York, Mỹ vào năm 1888 cũng đã miêu tả một sự việc kỳ lạ xảy ra với một thủy thủ lái tàu trên sông. Người thuỷ thủ này trèo lên cột buồm để buộc lại dây chằng và sơ ý không nhận thấy rằng tàu sắp lướt qua gầm cầu. Thanh gầm cầu sắc đã cắt đứt 5 – 6cm phần đầu trên của người thuỷ thủ. Anh ta được đưa vào bệnh viện cấp cứu.

Điều kỳ diệu là trong khi các bác sĩ đã hết hi vọng cứu chữa thì bỗng nhiên anh chàng thủy thủ này mở mắt ra và hỏi chuyện gì đang xảy ra với mình. Sau đó, anh ta còn rời bàn mổ và đòi quay về tàu để làm việc. Vô cùng kinh ngạc, các bác sĩ đã quyết định ghép lại phần sọ bị đứt cho anh ta dù bộ não đã bị tổn thương nghiêm trọng.

Sau 2 tháng điều trị, anh chàng thủy thủ đã bình phục hoàn toàn và trở lại tàu làm việc bình thường. Dường như cái đầu đã mất gần hết não không hề ảnh hưởng đến công việc của anh. Thỉnh thoảng, anh vẫn hoàn toàn khỏe mạnh, chỉ cảm thấy hơi choáng váng. Mãi đến 26 năm sau ngày bị tai nạn đó anh ta mới bị liệt tay và chân trái.

Vậy tại sao lại có một số người không có não hay bị tổn thương não nghiêm trọng mà vẫn sống như người bình thường trong một thời gian dài? Liệu có phải cơ thể họ đã được điều khiển bằng hệ thống nào khác mà chúng ta chưa biết?

Phải chăng tư duy của con người đến từ linh hồn, còn bộ não chỉ là một chiếc máy xử lý thông tin từ đó chuyển tới mà thôi? Nếu như vậy, chúng ta có thể giải thích được rất nhiều câu hỏi hóc búa hiện nay như: hiện tượng hồn ma, hiện tượng đầu thai, hiện tượng sống bên ngoài thân xác, hiện tượng người không não vẫn sống, hiện tượng ngoại cảm, cảm xạ, nhập vong, tìm mộ liệt sỹ, Phan Thị Bích Hằng, thế giới bên kia, vv… bỗng đều trở nên sáng tỏ và dễ hiểu…

Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải xem lại toàn bộ hiểu biết về bản chất của sự sống và lịch sử của loài người.

Minh Trí (theo tindachieu)
Nguồn: tientri.net

NHỮNG LỜI VÀNG NGỌC

Lê Quý Đôn 
Bác học Lê Quý Đôn:
" Năm nguy cơ có thể dẫn đến mất nước: Trẻ không kính già; trò không trọng thầy; binh kiêu, tướng thoái; tham nhũng tràn lan; sỹ phu ngoảnh mặt".



Trần Nhân Tông 
Trần Nhân Tông đã để lại di chúc:

 "Các người chớ quên nước lớn thường làm điều trái đạo. Hoạ muôn đời của ta là nước Tàu. Họ không tôn trọng quy ước và biên giới. Luôn luôn bày đặt chuyện để gây hấn. Không thôn tính được thì gặm nhấm đất đai của ta. Vậy các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một tấc đất cũng không để lọt vào tay kẻ thù. Ðây là di chúc cho con cháu muôn đời".


Albert Einstein 

Bác học Albert Einstein: 
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ, vượt lên trên ý niệm Thượng Đế nhân cách hóa, và thoát ra khỏi giáo điều, thần học. Tôn giáo này bao quát hai phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt căn bản trên ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm của mọi vật, tự nhiên, siêu nhiên để tổng hợp thành một nhất thể trọn vẹn ý nghĩa. Phật giáo thỏa được những điều kiện đó. Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được những nhu cầu của khoa học cận đại, thì đó chính là Phật Giáo".
"Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để đi theo xu hướng của khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học".


Lý Nhân Tông 

Lý Nhân Tông:
"Trẫm nghe, phàm các loài sinh vật không loài nào là không chết. Chết là số lớn của trời đất, lẽ đương nhiên của mọi vật. Thế mà người đời không ai là không thích sống mà ghét chết. Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh… Trẫm ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết lại khiến cho thứ dân mặc áo sô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, làm cho lỗi của trẫm thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo trẫm là người thế nào?".

"Trẫm vẫn xót vì tuổi nhỏ phải đảm đương ngôi báu lớn, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi, đến nay đã năm mươi sáu năm. Nhờ anh linh của tổ tông và hoàng thiên tin giúp nên bốn bể an lành, biên thùy ít loạn, đến khi chết được dự đứng sau tiên đế là may lắm rồi, việc gì còn phải khóc thương?".

"Việc tang thì sau ba ngày nên bỏ áo trở, thôi khóc than. Chôn cất thì nên theo cách kiệm ước của Hán Văn đế, không cần xây lăng tẩm riêng, hãy để trẫm được hầu bên cạnh tiên đế".


Tôn Tử 

Tôn Tử:
"Biết người biết ta, trăm trận không nguy. Không biết người mà chỉ biết ta, một trận thắng một trận thua. Không biết người, không biết ta, mọi trận đều bại".

Hoàng Lạc (trích dẫn)

SẮC ĐẸP VÀ CHUYỆN TÌNH

Y :
Ta tạm khoan đề cập đến nhng chuyện trong những xã hội đa phu (nhiều chồng), như xã hội Bantou (Nouvelle-Calédonie), ở xã hội Minangkabau (Sumatra), ở quần đảo Laquedives (Nam Ấn Độ), ở người Na thuộc tộc Na xa (Trung Quốc), hay Tây Tạng trước 1950, vv. Chúng ta luận chuyện ở những xã hội tương đối quen biết thôi nhé. « Vị » và tôi thuộc nam giới. Chúng ta luận và biểu dương sắc đẹp của phụ nữ thôi. Vả lại nữ giới là đa số của nhân loại, ta chú ý cũng là hợp lý. Lúc còn nhỏ, tôi ngắm người phụ nữ, chủ yếu là cái mặt. Đẹp hay không, theo tôi lúc đó là ở cái mặt, và cho rằng « nhan sắc » là chỉ ở đó.
Rồi với thời gian, tôi bắt đầu ngắm từ trên dần dần xuống dưới, cái ngực, cái bụng và … thấp xuống hơn nữa. Hết đằng trước, rồi mới tới đằng sau, cũng từ trên dần dần xuống dưới. Nhưng thế nào là đẹp? Có một giá trị « toàn cầu » cho sắc đẹp không? Bình quân theo nghĩa thống kê, người phụ nữ phương Đông mảnh khảnh lưng dài cẳng ngắn mông dẹp; phụ nữ châu Phi lưng ngắn cẳng dài mông mẩy; còn phụ nữ phương Tây, nói chung thì vừa phải thôi miễn chưa phải là trường hợp phát phì. Nhưng khó định nghĩa thế nào là đẹp, đấy là một vấn đề hoàn toàn khách quan. 
Tranh vẽ bà Dương Quí Phi mà vua Đường Minh Hoàng chết mê chết mệt, xem ra cũng chẳng hấp dẫn gì lắm. Hoặc những bức tranh vẽ các bà hoàng, công chúa phương Tây mà sách tả như tuyệt thế giai nhân, cũng chẳng phải ai cũng mê. Té ra cứ đọc sách, nghe tả , rồi tưởng tượng theo ý mình, có lẽ lại hay. Xét cho cùng, xem tranh vẽ thì chỉ là sắc đẹp « tĩnh ». Người phụ nữ đẹp nhất là lúc đang đê mê, mới làm lộ hết sắc đẹp. Thế mới biết những kẻ phàm phu tục tử là những kẻ chỉ biết vội vàng, không biết « nâng như nâng trứng, hứng như hng hoa », cũng như kẻ ăn nuốt vội mà chưa kịp nhai. Cho nên vẽ tranh phụ nữ như danh họa Picasso có lẽ cũng chưa đủ, có lẽ cần phải tìm cách « vẽ » trong một không gian năm, sáu chiều gì đó mới đủ tả cái sắc đẹp. Nhưng động như Picasso hay tĩnh như tranh của Matisse, thấy thiên hạ khen ầm ầm, tôi vẫn hoài nghi về thẩm mỹ. Nó cũng tùy tiện lắm. Theo bài báo « Les canons de la beauté » (Chuẩn về sắc đẹp), của Georges Vigarelle ; in trên tạp chí « L’Histoire » số 245 tháng 7 năm 2000 , quan niệm về sc đẹp ở châu Âu cũng thay đổi theo thời gian. Ở thế kỉ thứ 13, còn nói tới lồng ngực phải căng nâng áo mặc lên, lưng phải eo sao cho có thể nắm trọn trong vòng 2 bàn tay (không khác gì thời Đông Chu liệt quốc ở Trung quốc cách đây mấy nghìn năm, vua Sở Linh vương chỉ thích gái lưng eo, xây cái cung Chương Hoa, tuyển mỹ nhân lưng eo cho vào ở đấy, gọi là « Tế yêu cung » ; có người nhịn ăn gần chết đói để có lưng eo mong được vua ngó tới). Sang đến thế kỉ 15, 16, những họa sĩ như Alberti, DürerLeonardo da Vinci muốn « chuẩn hóa» sắc đẹp bằng cách định tỉ lệ lý tưởng như sau : đầu bằng một phần tám chiều cao toàn thân, nếu kể chiều dài từ trán đến cầm là 1 phần thì thân phải dài gấp 3, đùi dài 2 phần, bắp chân 2 phần. Nhưng rồi các vị cũng chẳng theo chuẩn của chính mình đặt ra. Thời đó, cũng có vị phân biệt những phần « quí » và nhng phần « không đáng kể » của người phụ nữ (như Firenzuole, trong cuốn sách « Discours sur la beauté des dames », dịch thoát nghiã là « Bàn về sắc đẹp phụ nữ », viết năm 1576) : phần « quí » là phần trên vì nhìn thấy, như mặt, ngực được phô bày, phần « không đáng kể » là phần dưới vì có áo, váy che đi. (Chao ôi, bỏ phí quá !). Ngày nay thì khác, người ta có che nửa dưới đâu ; người đẹp thì phần dưới có khi lại đáng « quí » hơn phần trên !
Thanh cũng có mà tục cũng có thể có. Tục nhưng không lấn sang địa bàn người khác, có lẽ còn hơn thanh mà có lấn. Câu « Gái một con, nhìn mòn con mắt », hay câu « Cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà nhảy ổ. Cau phơi tái, gái đoạn tang, chim ra ràng, gà mái ghẹ », xem chừng như có lấn vì có ý thèm trong đó?
Tôi bảo :
Thôi « vị » ơi, sắc đẹp đâu chỉ có vậy, còn sự « hấp dẫn » khác nữa chứ, mà cũng không hẳn là cái duyên thôi đâu. Chuyện Tàu, chuyện Tây, chuyện Ta đều có hết.
Y đáp:
Đúng là chuyện Tàu đâu có thiếu gì. Thời Chiến quốc, nước Trần, có nàng Hạ Cơ (vốn là gái nước Trịnh). Nàng này mắt phượng mày ngài, dung nhan tuyệt mỹ, lại có tài làm mê mẩn tình nhân. Năm mới 15 tuổi, Hạ Cơ nằm mộng thấy một chàng trai mũ ngọc, áo bào, tự xưng là thượng giới thiên tiên, đến giao hoan với mình, rồi truyền cách hấp tinh đạo khí rất thần diệu. Hạ Cơ có mấy đời chồng, người nào cũng kiệt sức chết non. Nàng có một con trai, cho học nơi xa, để mình tiện bề trăng gió. Hai quan đại phu nước Trần là Khổng NinhNghi Hàng Phủ hay qua lại, Nghi Hàng Phủ khỏe hơn nên được yêu hơn, Khổng Ninh có ý ghen nên mới « tiến dẫn » nàng cho vua Linh Công. Vua hỏi : « Trước đây, ta có nghe nói sắc đẹp của Hạ Cơ, nhưng nay nàng đã trên bốn mươi, hoa đào đang độ tháng ba thì còn đâu là xuân sắc ? ». Khổng Ninh nói : « Chúa công lầm rồi, nàng ấy giữ sắc đẹp rất khéo, nên vẫn còn đậm đà như tuổi đang xuân. Vả lại ngựa thuần mới là ngựa quí ». Vua tôi hú hí, con trai Hạ CơHạ Trung Thư mới căm giận lập kế giết vua Linh Công. Khuất Vu là quan nước Sở nghe đồn Hạ Cơ đẹp, mà nghề chơi có nhiều cách lạ, lòng ước ao, mới xúi vua Sở Trang vương đem quân giết « nghịch thần » nước Trần là Hạ Trung Thư. Phá nước Trần xong, chiếm được Hạ Cơ, vua Sở muốn « dùng », Khuất Vu mới can rằng : « Không nên ! Người đàn bà này là vật bất tường. Ai gần gũi nàng đều mang họa cả ». Vua Sở bị can, đành chịu bỏ, nhưng lại nói : « Tuy nhiên, nếu sắc đẹp ấy mà bỏ không, ắt gây rắc rối trong thiên hạ , chi bằng tìm cho nó một người chủ là hơn ». Nói rồi đem gả Hạ Cơ cho một tướng già là Tương Lão. Khuất Vu rất tiếc, nhưng chưa tuyệt vọng, mới nghĩ thầm : « Tương Lão chịu với Hạ Cơ thế nào nổi, chỉ vài tháng rồi nàng lại góa chồng, lúc đó ta sẽ tính ». Ít lâu sau Tương Lão chết, Hạ Cơ tư thông với con trai Tương Lão. Khuất Vu vẫn thèm, nên mới tâu với vua Sở : « Hạ Cơ vốn là gái nước Trịnh. Nay xin cho nàng trở về sống ở nước cũ ». Vua Sở nghe theo. Ít lâu sau, Khuất Vu mượn cớ xin đi sứ, sang nước Trịnh cưới Hạ Cơ, rồi mang nàng trốn sang nước Tấn.

Tôi :
Cũng có người cho rằng cái đẹp không phải là quan trọng lắm. Sự hấp dẫn có thể ở điểm khác. Dù tôi có chút hoài nghi, cũng vẫn xin kể : Hứa Doãn là người đời Tống bên Tàu, có văn tài, đỗ cao, làm quan có tiếng. Thuở trẻ lấy vợ, lúc mới cưới xong, thấy vợ xấu muốn bỏ, bèn hỏi vợ rằng : « Đàn bà có tứ đức, nàng được mấy đức ? ». (Nhắc lại là theo mấy nhà Nho thuở trước thì người đàn bà phải có bốn đức là « công, dung, ngôn, hạnh » ; dung là cái vẻ bề ngoài, tức là sắc đẹp. Cái ông Hứa Doãn này nêu cái sắc đẹp để tìm cớ đuổi vợ). Bà vợ mới trả lời : « Trong bốn đức, tôi chỉ kém cái « dung » mà thôi ». Và hỏi chồng : « Kẻ sĩ có bách hạnh, chàng được mấy hạnh ? ». (Bách hạnh đây là trăm nết hay). Chồng trả lời : « Ta đây đủ cả bách hạnh ». Vợ mới nói : « Trong bách hạnh, thì « đức » là đầu. Chàng là người hiếu sắc, không hiếu đức, sao lại bảo là đủ cả bách hạnh được ? ». Chồng « cứng họng » không trả lời được, đã không bỏ được vợ mà lại phục vợ, đó là trường hợp được nêu ra làm điển hình của « cái nết đánh chết cái nhan ». Có điều là đấy là sự tính toán cân nhắc, chẳng phải là tình yêu.
Y :
« Vị » nói đúng. Vả lại thuở ấy, chế độ đa thê thịnh hành, có giữ bà vợ xấu cũng chẳng hại gì, nếu cần « làm bốn phận » với vợ thì cũng có thể dùng nàng hầu đẹp « kích thích » giúp trước.
Tôi :
Lại có chuyện Lư phu nhân bên Tàu, vợ ông Phòng Huyền Linh đời Đường, là người tuyệt đẹp và có đức hạnh, ông yêu lắm. Lúc ông còn trẻ, chưa làm nên, một lần ốm nặng tưởng chết, thương vợ trẻ trung, nếu mình chết đi, ở góa thì tội nghiệp, mới bảo vợ rằng : « Tôi bệnh nguy quá, nếu chết đi, nàng còn tuổi trẻ, không nên ở vậy ; nên tái giá và ăn ở tử tế với người chồng sau ». Bà vợ khóc nức nở, rồi lấy dao tự khoét một mắt đi, để chứng tỏ cho chồng biết rằng mình sẽ không lấy ai nữa. Ít lâu sau, may ông khỏi bệnh. Rồi ông thi đỗ làm quan, dần dần đến chức tể tướng, nhưng một lòng yêu mến kính trọng Lư phu nhân, không hề lấy người tì thiếp nào cả. Người ngoài không biết tình tiết, cho rằng tại Lư phu nhân có tính ghen. Vua Đường Thái Tông muốn thử lòng Lư phu nhân, một hôm bảo Hoàng hậu gọi bà vào bảo : « Các quan to thường có tì thiếp. Nay Vua muốn ban cho chồng bà một người mỹ nữ ». Bà nhất quyết không nghe. Vua nổi giận mắng: « Không ghen, vâng mệnh, thì sống ; ghen thì chết ». Rồi sai người hầu đưa cho bà một chén rượu, giả làm thuốc độc, bảo : « Không vâng mệnh thì sẽ phải uống chén thuốc độc này ». Bà cầm chén rượu uống hết ngay. Vua thấy vậy, nói : « Ta cũng phải sợ [bà ấy], huống hồ là Phòng Huyền Linh ». Tôi kể nhưng không muốn luận bàn.
Y :
Nói chuyện ghen tuông, không quên nói cái chuyện cái « khố giữ trinh » (ceinture de chasteté) Theo truyền thuyết thì cuối thời Trung cổ châu Âu, mấy tay hiệp sĩ (chevaliers) tham dự các cuộc viễn chinh chữ thập (croisades) ở Cận Đông - thế kỉ 11, 12, 13, tất cả có chín cuộc croisades của phương Tây Ki-tô giáo, sang Cận đông nhằm « giải phóng » Thánh địa khỏi tay Hồi giáo - trước khi đi xa, sai làm cái khố bằng sắt, bắt vợ đeo vào rồi khóa lại, mang chìa khóa theo mình, để vợ ở nhà khỏi ngoại tình ; người vợ phải chịu như vậy có khi hàng mấy tháng hoặc hàng mấy năm. Bẩn thỉu và khổ sở thây kệ. Nghe mà khiếp.
Tôi :
Ta cũng nên thận trọng vì chuyện giả chuyện thật cũng lẫn lộn nhiều đấy. Có người bảo rằng có thể gốc của chuyện này là một câu chuyện tình thanh và lý tuởng hơn, được kể trong một « lai » của nữ thi sĩ Marie de France (1154-1189 ; tiếng Pháp « lai » trong trường hợp của bà này nghĩa là một tình sử huyền diệu viết bằng thơ, mà gốc là những « bài hát kể chuyện » của xứ Breton) : một cặp tình nhân yêu nhau đắm đuối, thề nguyền thủy chung ; nàng thắt một cái nút ở dưới áo chàng, và chàng thắt một cái nút vào cái khố của nàng, và tin tưởng rằng không thể có ai gỡ được các nút này ra, nếu không dùng dao hay kéo để cắt, vì chỉ có chàng và nàng mới biết cách gỡ nút ; và như vậy chỉ có nàng và chàng mới nhận được ra nhau. (Chuyện cũng kỳ : hay là họ chỉ gặp nhau trong đêm tối ?). Lại có người giải thích gốc gác câu chuyện xuất phát từ mấy tu sĩ nam hay nữ đeo một cái dây lưng để tự răn (?). Thế rồi dần dần biến ra chuyện cái khố ngăn dâm gán cho cuối thời Trung cổ. Theo lời kể, có hai bảo tàng một thời trưng bày hai cái khố này, sau lại rút đi vì phát hiện ra là đồ giả, làm vào thế kỉ 19. Cũng có thuyết cho rằng vào những thế kỉ 15, 16, ở Firenze (Ý), do loạn li, và đường xá đi lại thiếu an toàn, chính mấy bà phụ nữ đặt hàng mấy cái khố này để tự bảo đảm cho mình khi di chuyển. Cũng lại có sự việc đào thấy một cái xác một phụ nữ mang cái khố giữ trinh bằng sắt, nhưng đó là vào thế kỉ cuối thế kỉ 16 đầu thế kỉ 17 gì đó. Cũng có người kể là theo cuốn sách « Les Vies des Dames Galantes » (dịch thoát nghĩa là : Cách sống của mấy bà điếm đàng) của Pierre de Bourdeille de Brantôme (1540-1614), ông này có kể rằng cái khố giữ trinh xuất hiện ở Pháp dưới thời vua Henri II (trị vì từ 1547 đến 1559) : có một người lái buôn đem bán ở chợ ; có mấy ông chồng ghen tuông mua về khóa vợ, nhưng mấy bà vợ lén sai người làm cái khóa thứ nhì cho riêng mình. Sau dân chúng phẫn nộ, hủy loại hàng này và đe giết người bán. Mấy sử gia ngày nay thì cho rằng cuốn sách va dẫn trên không đáng tin. Cũng không loại trừ khả năng là chuyện cái khố giữ trinh này là có thật trong vài trường hợp lẻ tẻ, nhưng không phải là phổ biến. Cũng là chuyện bát nháo. Có lẽ câu hỏi đáng chú ý là tại sao người ta lại gán gốc gác của cái khố này cho thời cuối Trung cổ, trong khi các tài liệu hay « bằng chứng » thường thuộc về thời Phục hưng (thế kỉ 15, 16) hay sau đó ? Có người giải thích rằng cần phải có một khung cảnh phù hợp thì mới kích thích trí tưởng tượng của người ta : thế kỉ 11, 12, 13 là thế kỉ của các cuộc viễn chinh chữ thập, chồng đi xa lâu, vợ trẻ ở nhà. Đồng thời cũng đổ cho thời Trung cổ những gì đen tối nhất, tuy thực tế không hẳn vậy. Nhưng như đã thấy trên, lý luận một chút, thì thấy khá phi lý ; khi ông chồng đi vắng lâu như vậy, bà vợ nếu muốn, có thể dễ dàng gọi một người thợ rèn vào làm một cái chìa khóa khác để mở ra : « Mở ra rồi lại khóa vào như chơi ! ».
Y :
Giờ ta nói sang chuyện tình đi. Chuyện tình ta cũng có nhiều : nào là Trương Chi-Mỵ nương ; Mị Châu-Trọng Thủy ; Tiên Dung- Ch Đồng Tử ; Huyền Trân công chúa- Trần Khắc Chung ; bố mẹ Nguyễn Trãi ; vua Mạc Mậu Hợp bị mất ngôi vì toan tính cướp vợ của Bùi Văn Khuê làm ông này bỏ chạy hàng Trịnh Tùng ; chúa Trịnh Sâm mê bà chúa Chè Đặng Thị Huệ, gây ra loạn trong nhà, vv. Nhắc lại cũng nhàm. Chuyện Tàu cũng đã nghe nhiều. Kể vài chuyện nước khác xem sao.
Tôi :
Ấn Độ có cái Taj Mahal đấy. Nhắc lại trong ba thế kỉ (từ 1526 đến 1857) triều đại trị vì Ấn Độ là triều đại Moghols, mà người sáng lập là hoàng đế shah Baber (còn gọi là Babur). Ông này tự nhận mình là dòng dõi của Timur Leng phía cha (cháu 5 đời) và dòng dõi Thành-cát-tư hãn phía mẹ (không biết có phải thc thế không, hay là thấy sang bắt quàng làm họ), nhưng tóm lại là ông ta người gốc Thổ Nhĩ Kỳ, theo đạo Hồi, chiếm được phần lớn Ấn Độ. Tiếp đó vào thế kỉ 17, hoàng đế shah Djahan (1628-1657) có bà vợ là Arjumand Banu, được rất yêu, gọi là Mumtaz Mahal. Năm 1631, Mumtaz Mahal chết khi đẻ người con thứ 14. Tương truyền rằng hoàng đế Djahan đau buồn, không ra khỏi phòng trong tám ngày; khi ra triều trở lại thì râu tóc đều đã bạc phơ. Để tưởng nhớ người vợ yêu, ông ra lệnh xây một cái lăng ở gần kinh đô Agra : đó là Taj Mahal, một công trình kiến trúc đồ sộ bằng đá cẩm thạch trắng, mà cái vòm của phần trung tâm cao 56m, giữa 17 hec-ta vườn hoa cây cỏ và các công trình phụ. Có nguồn ghi là phải huy động tới hai vạn thợ và hơn một nghìn súc vật như voi, ngựa, trâu, lạc đà, để xây cất trong 10 năm mới xong (có nguồn nói là xây cất lâu khoảng 16 năm). Từ lâu đài-đồn lũy đá đỏ (tiếng Pháp gọi là « Fort rouge ») nơi ngự của hoàng đế, có thể nhìn thấy Taj Mahal. Người ta tán dương cái đẹp và vẻ nên thơ của công trình này, biểu hiện của tình yêu, thương nhớ ; nhà thi sĩ Ấn Độ Rabindranath Tagore (giải thưởng Nobel văn học 1913) ví Taj Mahal như « một giọt nước mắt trên má của thời gian ». Tôi không muốn phụ họa. Cách đây gần 30 năm, nhân một chuyến đi dự hội nghị khoa học ở New Delhi, vợ chồng tôi có « lẻn » vắng mặt một ngày, tránh không đi chung với những người khác, thuê một chiếc xe hơi riêng đi thăm Taj Mahal. Từ cung điện trong Fort rouge ở Agra nhìn sang, do phong cảnh không hữu tình, cũng không có « ấn tượng » lắm. Nhưng đến tận nơi, mới thấy hết sự đồ sộ, sự cầu kỳ, tinh vi của Taj Mahal này. Ba ý nghĩ ập đến với tôi lúc đó : 1/ Phải yêu lắm - (sắc đẹp có lẽ không phải lý do chính trong trường hợp này, khi yêu một người phụ nữ đã đẻ 14 lần) - mới cho xây cất một công trình như vậy. 2/ Sao ở khắp xứ sở này, người ta đã thực hiện biết bao nhiêu công trình cho người chết, mà lại nghĩ ít thế đến tình cảnh của người sống ? (Tôi còn nhớ thuở ấy đi ngoài đường, có một người đàn bà giắt một bé gái nhỏ chng 3 tuổi - hay là nhiều tuổi hơn nhưng trông như đứa bé lên 3 - thấy vợ chồng tôi, đứa bé buông tay mẹ, đến quì hôn chân vợ tôi rồi chìa tay xin tiền. Tôi nghĩ sắt đá cỏ cây cũng phải động lòng, vậy mà sao có những người cầm quyền vẫn có thể thản nhiên ?). 3/ Đã bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và máu đã chảy ở hàng vạn người, để thỏa mãn tình yêu của một người ? (Theo một nguồn kể, shah Djahan triệu nhà kiến trúc sư Ba-tư nổi tiếng nhất thời đó là Usad Ahmad đến, nhưng sai người giết vợ ông ta để ông ta cảm thấy nỗi đau khổ mất vợ như thế nào, để đổ tất cả tình cảm và tâm trí vào việc thực hiện công trình này. Thực hay bịa ?).
Cũng có lời đồn rằng hoàng đế shah Djahan cũng có ý định cho xây cất một lăng mộ tương tự cho chính mình, nhưng bằng cẩm thạch đen. Nhưng ý định đó không bao giờ được thực hiện. Lý do là shah Djahan có ý định truyền ngôi cho người con cả là Dara Shikok (còn gọi là Shekuh), nhưng người con thứ ba là Aurengzeb không chịu như vậy. Aurengzeb liên kết với các người anh em khác để loại người anh cả, gây ra cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn, và sau khi giết được Dara Shikok rồi thì lại loại các anh em khác, rồi tiến vào kinh đô Agra, truất ngôi của cha, tự lập mình làm hoàng đế năm 1658, giam cha ở trong cung trong 8 năm đến lúc chết. Trong 8 năm đó, shah Djahan cũng còn có thể, từ cung điện trong Fort rouge, nhìn thấy Taj Mahal phía xa để tưởng nhớ đến người vợ yêu. Hoàng đế Aurengzeb là người ngoạn đạo, sùng tín, không khoan dung như những vua trước, bắt ép dân chúng phải theo đạo Hồi, gây nên nhiều cuộc chống đối, nên sau hơn 50 năm trị vì, triều đại này dẫn đến suy thoái, các hoàng đế nối nghiệp kém cỏi, sau dần dần đưa đến sự có mặt của Pháp, rồi nhất là của Anh trên lãnh thổ này. Nên nghĩ gì về tình yêu trong khung cảnh đó?
Xin kể thêm là gần đây, có một nhà khảo cổ phát hiện ra rằng , phía bên kia sông so với Taj Mahal, dưới chân cung điện Fort Rouge, xưa kia có một vườn thượng uyển, nơi này có một hồ nước. Về chiều, khi bóng xế tà, hình ảnh của Taj Mahal phản chiếu trên mặt hồ : từ đó sinh ra cái truyền thuyết Taj Mahal đá đen. Thực hay hư?
Y:
Xa hơn về phía Tây, có chuyện tình «Romeo và Juliet » đó. Hai nhân vật này xuất hiện lần đầu tiên trong một truyện ngắn của một nhà văn Ý, thế kỉ 15., nhưng chỉ thực sự được thiên hạ biết đến qua tác phầm viết khoảng năm 1595) của William Shakespeare (thi hào người Anh 1564-1616). Nội dung câu chuyện tóm tắt như sau. Ở thành phố Verona (Ý) thưở xưa có hai gia đình thù địch : MontaiguCapulet. Gia đình Capulet tổ chức một buổi khiêu vũ giả trang (bal masqué) để con gái là Juliet gặp hầu tước Paris, người đã hỏi xin cưới Juliet làm vợ. Romeo và hai người bạn, vì một lý do tìm người quen, lẻn vào dự buổi này. Và do sự tình cờ RomeoJuliet gặp nhau, và mê nhau thắm thiết, mà cũng thảm thiết khi phát hiện rằng mình thuộc hai gia đình thù địch nhau. Nhưng Tybalt, một người anh họ của Juliet, nhận ra Romeo. Quá yêu Juliet, hôm sau Romeo năn nỉ nhờ sự giúp đỡ của cố đạo Laurent. Ông này nhận giúp cặp uyên ương. Cũng vào lúc đó, Tybalt đi tìm Romeo để đòi đấu kiếm tay đôi để rửa nhục (duel); Romeo từ chối ; nhưng Mercutio bạn của Romeo thấy bị khiêu khích, nhảy vào đấu thay và bị Tybalt đâm chết. Romeo đau đớn vì bạn, rút kiếm đấu và giết Tybalt. Hai gia đình kiện lên ông hoàng xứ này, ông này tha tội chết cho Romeo nhưng xử đày đi xa. Romeo than vãn, cho rằng xa Juliet thì thà chết còn hơn. Bố Juliet, vì thấy con gái sầu thảm, nên ép phải nhanh chóng tiến hành đám cưới với hầu tước Paris. Juliet lẻn trốn đến nhà cố Laurent. Trước sự tuyệt vọng của Juliet, ông này đề nghị một giải pháp: cho Juliet uống một liều thuốc, có hiệu quả là làm cho nàng này giống như người chết trong một thời gian, để rồi khi đem « chôn » nàng ta trong mộ xây của của gia đình, sẽ báo cho chàng Romeo đến đón khi nàng tỉnh dậy. Juliet uống liều thuốc rồi, sự việc diễn biến đúng như dự định, trừ khâu chót. Bị đày ở xa, Romeo không được báo trước tình tiết bí mật ; khi được tin Juliet « chết », chàng lẻn về viếng mộ Juliet, tình cờ gặp hầu tước Paris mang hoa đến viếng mộ Juliet . Đôi bên đấu kiếm, Paris bị thương và trước khi chết, yêu cầu Romeo mang mình đến gần thây Juliet. Chàng Romeo nhận lời; và trước « xác » của Juliet, thấy vẻ đẹp yêu kiều của nàng, hôn nàng rồi uống thuốc độc thật tự tử. Khi cố đạo Laurent tìm đến mả Juliet, thì phát hiện ra xác Paris rồi xác Romeo. Khi Juliet tỉnh dạy, nàng đau đớn than vãn, và tự tử bằng dao găm của chàng Romeo. Cố Laurent đem sự tình kể lại với ông hoàng và gia đình đôi bên. Trước thảm kịch đó, hai ông bố nguyền rủa sự thù nghịch vô nghĩa của hai dòng họ, và quyết định hòa hảo với nhau, và hứa đúc hai pho tuợng vàng cho « cặp tình nhân của thành Verona ». Câu chuyện lỉnh kỉnh có vậy, nhưng nổi tiếng khắp năm châu bốn biển có lẽ vì do tác giả là William Shakespeare.
Tôi :
Có danh tiếng nên mới có người hưởng ứng : nhà soạn nhạc Berlioz cũng từ đó mà viết bản nhạc giao hưởng (symphonie dramatique, 1839), Nhà soạn nhạc Gounod viết bản nhạc kịch (opéra, 1867), nhà soạn nhạc Prokofiev bản nhạc kịch múa (partition de ballet, 1938) trên đề tài này.
Tôi nói tiếp :
Xa hơn nữa về phía Tây cũng lại có « Tristan et Iseult », mà câu chuyện tình này xem ra cũng phức tạp lắm, vì có nhiều bản / dị bản. Thoạt đầu là truyền khẩu, và vài di tích như một hòn đá khoảng thế kỉ thứ V trên có ghi chữ « Drvstanvs » (Tristan). Có bản viết của Chrétien de Troyes và bản viết của de la Chièvre (đầu thế kỉ 12) nay đã thất lạc. Còn lại hai bản cổ nhất là : bản của Béroul (viết khoảng giữa 1150 và 1190), mất đầu mất đuôi, chỉ còn quãng giữa khoảng 4 ngàn câu thơ; một bản của Thomas viết năm 1173, với nhiều dị bản, đôi khi trái ngược với bản của Béroul. Câu chuyện kể ngày nay là từ hai bản đó mà ra, được thêm thắt bởi những mẩu của nhiều tác giả khuyết danh. Chuyện đại khái như sau:
Vua Rivalen xứ Loonois giúp vua Marc xứ Cornwall (tây nam nước Anh, tiếng Pháp là Cornouailles, không phải là Cornouaille ở Pháp) đánh giặc, do đó có dịp gặp Blanchefleur, em gái vua Marc. Đôi bên yêu nhau, rồi cưới nhau. Nhưng Rivalen phải về nước mình dẹp loạn, mang theo vợ đã có mang. Chẳng may, vua Rivalen tử trận ; ba ngày sau, Blanchefleur đau buồn, cũng chết theo sau khi đẻ một đa con trai, đặt tên là Tristan (tiếng Pháp, « triste» nghĩa là buồn). Mồ côi, Tristan được một người tên là Gouvernal nuôi dạy. Tristan bị bọn lái buôn Na-uy bắt cóc rồi bỏ rơi ở xứ Cornwall . Nhờ có tài đàn hay, đánh kiếm giỏi, chàng được vua Marc chú ý. Gouvernal đi tìm, thấy chàng ở Cornwall, kể cho vua Marc biết chàng chính là con em gái vua. Vì vậy mà vua yêu dùng Tristan. Thuở ấy, xứ này hàng năm phải cống một món tiền lớn cho Morholt, một khổng lồ. Tốn kém, nhưng không ai dám cưỡng, chỉ có Tristan tình nguyện đấu với Morholt, giết được hắn, nhưng bị thương nặng chắc chết, vì gươm của Morholt có tẩm thuốc độc. Tristan một mình mang đàn mang gươm, lên một chiếc thuyền không buồm không lái, mặc cho thuyền trôi trên biển để đợi chết. Số phận run rủi chiếc thuyền trôi đến xứ Ái-nhĩ-lan. Bà hoàng xứ này nghe thấy đàn hay, rất thích, hứa sẽ chữa cho chàng khỏi với điều kiện là chàng phải dạy đàn cho con gái bà là Iseult. Biết bà hoàng này chính là em gái của Morholt mà mình đã giết, Tristan phải giấu tông tích thật của mình. Được chữa khỏi, chàng trở về xứ Cornwall.
Những quần thần của vua Marc vốn ghét Tristan e rằng vua một ngày kia sẽ chọn Tristan nối ngôi ; họ xúi vua nên cưới vợ để có con nối dõi. Vua Marc đồng ý, nhưng muốn lấy cô gái đẹp nhất thế gian, cô gái tóc vàng mà một con chim én đã đặt một sợi tóc bên cửa sổ nhà vua. Để đẩy chàng đi xa, quần thần xui vua trao sứ mạng cho Tristan đi tìm cô gái tóc vàng kia. Tristan nhận ra cái tóc kia là của Iseult, nên nhận lời. Giả làm một lái buôn, chàng trở lại xứ Ái-nhĩ-lan và được biết là có một con quái (con « rồng tây » , dragon !) mỗi ngày cướp đi một cô gái. Bà hoàng x này hứa ai giết được con quái này thì sẽ gả Iseult cho. Tristan tình nguyện đi, và giết được con quái, cắt lưỡi nó để mang về làm bằng chứng. Nhưng lưỡi con quái phát ra khí độc làm chàng ngất đi. Khi đó một chàng trai khác mê Iseult, lẻn đi theo, lợi dụng lúc Tristan bị ngất, cắt đầu con quái mang về nhận công. Nhưng chàng này vốn mang tiếng là người nhát, nên triều thần không ai tin. Để biết rõ sự thật, Iseult cùng thị nữ là Brangien quyết định đến tận nơi để xem thực hư thế nào, và tìm thấy Tristan đang ngất. Nàng cứu chàng khỏi, nhưng khi lau gươm của chàng, nàng phát hiện ra rằng cái vết mẻ của gươm phù hợp với vết tử thương ở đầu Morholt, cậu nàng. Nàng cầm gươm định giết chàng, nhưng chàng thuyết được nàng rằng chàng giết cậu nàng trong một cuộc đấu đàng hoàng chính trực. Nàng do dự, và rốt cục nàng sợ phải lấy cái anh chàng nhát cắt đầu con quái, nên nàng ưng thuận để Tristan sống. Nhờ cái lưỡi rồng làm bằng chứng, vua Ái-nhĩ-lan nhận gả Iseult cho Tristan. Lúc đó chàng mới thổ lộ sự thật rằng chàng có sứ mạng đi hỏi cưới Iseult cho vua Marc, và qua sự thông gia này hai xứ sẽ chuyển từ thù địch thành thân thiện. Nàng Iseult thì phiền lòng vì chàng hỏi cưới mình cho người khác. Mẹ nàng lo ngại cho tương lai của nàng, mới trao cho thị nữ Brangien một liều thuốc bùa yêu, dặn để kín đáo cho vua MarcIseult uống : liều thuốc sẽ làm cho cặp vợ chồng gắn bó yêu nhau suốt đời.
Trên thuyền trở về Cornwall, TristanIseult khát nước, thị nữ Brangien dâng nhầm liều thuốc bùa yêu cho hai người. Trót uống rồi, hiệu quả bắt đầu. Brangien đành thú s thật với hai người. Tristan cố cưỡng, vì lòng trung thực với vua Marc, nhưng cả chàng và nàng đều không cưỡng nổi bùa yêu, và sau ba ngày thì sự gì phải đến đã đến, hai người trở thành tình nhân.
Về đến Cornwall, vua Marc tiếp đón Iseult, lễ cưới nhà vua và nàng được tổ chức linh đình. Nàng này mưu mô tính toán khá nhiều : nàng thuyết được thị nữ Brangien lẻn vào giường vua đêm tân hôn để « thế thân » cho nàng, nên nhà vua ngỡ nàng còn trinh. Vua và triều thần chẳng ai biết gì, nhưng Iseult vẫn sợ Brangien tiết lộ bí mật, mới giả vờ sai thị nữ này vào rừng hái lá thuốc đồng thời lén sai hai đầy tớ đi theo để giết cô này. Nhưng hai người này hiểu lòng tốt của cô ta, nên tha không giết. Rồi rốt cục hai nàng lại hòa với nhau, thề thốt thủy chung mãi mãi ! Trong mấy tháng, TristanIseult lén lút với nhau mà vua không biết. Nhưng những người cận thần nói mãi, vua cũng nghi, mới tạm đày chàng xa kinh đô. Để thử cặp này, vua giả vờ đi săn vắng vài ngày. Chàng và nàng hẹn gặp nhau trong rừng ; vua rình nơi hẹn, nhưng chàng và nàng đoán trước nên giả bộ chỉ nói những chuyện tào lao ; vua ngỡ lòng họ ngay thật, nên lại cho phép Tristan trở về triều. Chàng và nàng lại lén lút yêu nhau. Nhóm cận thần vẫn không chịu thua ; họ bày kế cho vua : vua sai Tristan đi xa thực hiện một s mạng ; trước khi đi, thế nào chàng cũng tìm cách gặp nàng ; vậy nên rắc bột trên giường và quanh giường của nàng, nếu chàng mò đến, tất để lại giấu vết. Quả vậy, đêm chàng mò vào, nhảy phốc lên giường nàng, chẳng may một vết thương cũ rách ra, để lại vết máu. Sáng ra, vua và cận thần vào soát, chàng không còn đấy, nhưng vết tích rành rành, chàng và nàng bị kết án tử hình. Khi quân dẫn Tristan tới đàn hỏa thiêu, chàng tán được mấy người lính này cho chàng ghé vào cầu Chúa Trời một lần chót ở một nhà thờ trên đỉnh núi ; rồi lợi dụng cơ hội nhảy qua cửa sổ xuống biển trốn thoát. Còn nàng thì được một nhóm người hủi thuyết vua rằng có một hình phạt nặng hơn tội bị thiêu : đó là bắt nàng sống chung với họ (thuở ấy, người ta sợ bệnh hủi đến mức người hủi phải sống trong trại biệt lập). Vua nghe lời, trao nàng cho họ. Nhưng chàng Tristan, với sự đồng lõa của người thày cũ Gouvernal, cứu được nàng ra ; và hai người sống lén lút trong rừng. Một bữa, có người hầu của vua bắt gặp chàng và nàng đang ngủ trong rừng, về báo với vua ; vua vội tới kiểm thì thấy họ đang ngủ, nhưng giữa họ có để thanh gươm của chàng, « chứng tỏ » rằng họ « trong trắng ». Nhưng vua cũng muốn cho họ biết rằng vua có tới ngó, nên vua thay cái gươm của vua với cái gươm của chàng, và cái nhẫn của vua với cái nhẫn của nàng. Khi tỉnh dậy, chàng và nàng cũng cảm động trước thái độ khoan dung của vua. Chàng thì cầu Chúa Trời cho mình có đủ can đảm để trả nàng cho vua, còn nàng thì cũng tiếc cuộc sống êm ái trong triều. Họ tâm sự và hỏi ý một ẩn sĩ, vị này khuyên nàng nên về triều và ông ta thuyết được vua là nàng vẫn « trong trắng ». Thế là nàng được về với vua, nhưng để « chứng minh » rằng nàng không tội lỗi, nàng phải lội qua một cái vũng hiểm. Nàng lén nhắn chàng giả dạng làm người hủi, chàng giúp nàng lội qua nổi cái vũng hiểm đó bằng cách công kênh nàng trên vai mình, và sau đó nàng có thể thề thốt với vua và triều đình rằng trừ vua và « người hủi » đó, không ai mó đến người nàng. Nàng này thật lắm mưu : thực vậy mà không phải vậy ! Tiếp đó, Tristan lại được về triều. Chàng và nàng lại lén lút yêu nhau. Nhóm cận thần vẫn mách với vua ; chàng thù nên giết một số. Nhưng rồi một lần, vua cũng phát hiện ra chàng và nàng ngủ trong một vườn quả, nhưng không có thanh gươm ngăn ở giữa. Lần này, vua hoàn toàn tin rằng chàng và nàng quả thật là tình nhân, và đuổi chàng đi xa.
Tristan lang thang từ xứ nọ sang xứ kia, rồi đến xứ Bretagne (tây bắc nước Pháp) giúp vua Hoel và hoàng tử Kaherdin dẹp giặc. Để cảm ơn chàng, vua định gả con gái cho chàng. Chàng nhận lời vì nàng này xinh đẹp và vì nàng cũng mang tên là Iseult. Nhưng cưới rồi thì đêm tân hôn, chàng lại hối hận khi nhớ tới mối tình cũ, và từ chối không chịu giao hợp. Nàng giận ; chàng kiếm cớ thoái thác rằng để cảm ơn Đức Bà đồng trinh giúp chàng thắng trận, chàng có lời thề giữ mình « trong trắng » trong một năm. Nhưng sau đó Kaherdin phát hiện ra là đám cưới của em gái mình chỉ là đám cưới « suông », nên nổi giận định giết Tristan. Chàng này đem sự thật ra kể cho Kaherdin nghe : mối tình của chàng với « Iseult tóc vàng » (gọi như vậy để phân biệt với em Kaherdin là « Iseult tay trắng » (Iseult aux Blanches mains). Cảm động, Kaherdin thông cảm với Tristan, giúp chàng này trở lại Cornwall, lại lén lút với nàng « Iseult tóc vàng ». Nhưng chỉ một thời gian sau, sợ tiết lộ, lại phải trốn đi. Trở về Bretagne, Tristan lại có dịp giúp Kaherdin dẹp loạn ; nhưng lần này chàng bị thương nặng bởi một vết giáo tẩm thuốc độc. Biết rằng chỉ có « Iseult tóc vàng » mới biết cách chữa, chàng nhờ Kaherdin sang Cornwall tìm cách đón nàng, và qui ước rằng : khi trở về, nếu đón được nàng, thì thuyền dương buồm trắng ; nếu không đón được nàng thì thuyền dương buồm đen - (tích này bắt chước cái tích trong chuyện chàng Thésée và con quái Minotaure của Hy-lạp, đã kể ở phần 2 trước đây). Không ngờ là nàng « Iseult tay trắng » nghe lỏm được và biết sự thật vì sao chàng Tristan không chịu giao hoan với mình. Kaherdin sang Cornwall, lẻn đón được « Iseult tóc vàng » về, nhưng khi thuyền sắp đến bến, nàng « Iseult tay trắng » nổi ghen vào báo với Tristan rằng thuyền mang buồm đen. Chàng tuyệt vọng, tắt thở chết. « Iseult tóc vàng » tới nơi, nghe tin Tristan đã chết, tìm đến, nằm cạnh xác chàng, rồi cũng tắt thở chết theo chàng.
Ít lâu sau, vua Marc cho đưa thi hài của cặp tình nhân về xứ Cornwall, và cho chôn hai người trong một nhà thờ - (tục lệ phương Tây hay chôn người quyền quí trong nhà thờ). Rồi một đêm, từ mộ chàng, mọc ra một cây leo, cây này mọc sang chui vào mộ nàng. Dân trong vùng cắt cây này đi, nhưng cây lại mọc như vậy, ba lần cắt, ba lần lại mọc sang mộ nàng. Dân lấy làm lạ tâu lên vua ; vua truyền từ nay đừng cắt nữa.
Tình sử này đã gợi hứng cho nhà soạn nhạc Wagner viết vở nhạc kịch ba màn « Tristan và Isolde » (1865).
Y :
Tôi xem có vẻ như « vị » kể chuyện tình này, nhưng không thích thú chăng, vì tuy cốt chuyện đầy yêu thương gắn bó nhưng rắc rối, xen lẫn cả gian dối, lừa đảo, mưu mô, giết chóc, mối tình gắn bó lại do bùa yêu. Có lẽ tình yêu thành thật, nếu có là ở phía vua Marc chăng ? Có người cho là thế vậy mới là ham mê, say đắm. Và biết bao tác giả đã luận về tình sử này : nào là lỗi hay không lỗi, tha tội hay không tha tội theo tiêu chuẩn của đạo Ki-tô ; nhóm cận thần mách vua là do ganh tị chứ không phải là do đạo lý ; thái độ của vua Marc là do yếu đuối, chứ không phải vì khoan dung vì dân chúng rất quí Tristan đã cứu dân thoát khỏi sự áp chế của Morholt, vv. Nhưng thôi, ta bỏ qua những lỉnh kỉnh đó. « Vị » có chuyện tình nào êm ái hơn thì kể cho nghe.
Tôi :
Tình yêu của « Orphée và Eurydice » (Oóc-phê và Ơ-ri-đi-xơ) có lẽ là một tình sử thần thoại đẹp. Tôi chỉ giữ phần chính của câu chuyện, mà loại bỏ những chi tiết khác.
Ở một vùng nước Hy-lạp xưa, có một chàng tên là Orphée đàn giỏi hát hay, có vợ là Eurydice. Vợ chồng yêu nhau thắm thiết. Một bữa chẳng may nàng bị rắn độc cắn chết. Orphée đau đớn khôn nguôi, và quyết định xuống tận âm phủ tìm vợ. Chàng lang thang khắp nơi để tìm đường xuống cõi này, nơi thuộc lãnh vực của « Diêm vương » Hadès và « Diêm vương hậu » Perséphone, hai thần cai quản cõi chết. Tìm mãi không thấy, chàng hát lên nỗi đau khổ tuyệt vọng của mình ; tiếng đàn tiếng hát hay đến mức làm cây cỏ cũng cảm động, rạp xuống để chỉ đường cho chàng xuống cõi âm. Chàng tiến vào không chút nao núng, và trong bóng tối âm u, chợt thấy hiện ra ba cặp mắt sáng rực cản đường : đó là ba cặp mắt của con Chó ngao ba đầu Cerbère gác cổng vào âm phủ. Tiếng đàn tiếng hát của chàng làm dịu Cerbère, nó nhường lối cho chàng tiến vào. Chàng tới bờ sông Styx, con sông của cõi âm. Để qua đựoc sông này, tiếng đàn tiếng hát của chàng làm mủi lòng Charon, người lái đò cõi chết và thuyết phục được vị này chở chàng qua bờ bên kia. Chàng đi qua vùng những linh hồn người xấu đang vĩnh viễn bị hình phạt ; qua vùng những người không xấu không tốt ; rồi qua vùng của những linh hồn người tốt đang được hưởng cự lạc. Cuối cùng, chàng tới trước nơi ngự của hai thần HadèsPerséphone ; chàng đàn và hát lên nỗi đau khổ của mình, mất đi người vợ còn đang ở tuổi thanh xuân mơn mởn ; chàng van xin cho vợ trở về dương thế ; chàng viện lẽ rồi một ngày kia, đằng nào vợ chồng chàng cũng trở lại cõi âm. Nếu không, cùng lắm, chàng tình nguyện ở lại ngay cõi âm bây giờ để khỏi xa vợ. Mối tình của chàng làm xiêu lòng hai vị thần, và chàng được phép mang vợ trở về cõi sống, nhưng với một điều kiện : trước khi hoàn toàn rời khỏi cõi âm, chàng không được quay đầu lại nhìn vợ. Orphée sung sướng cảm ơn. Theo lệnh của thần Hadès, hồn Eurydice được phép theo chàng. Chồng trước vợ sau lần theo đường trở về dương thế. Ông lái đò Charon chở họ qua sông Styx, con Chó ngao Cerbère nhường lối cho họ đi ; họ đi qua một vùng yên lặng ; gần đến cõi sống rồi, mà sao không có tiếng động nào. Orphée chợt lo lắng, không biết Eurydice có theo kịp mình không, nàng có lạc đường không, và trong cơn hoảng hốt chàng quay đầu lại nhìn xem nàng đâu. Thì chỉ thấy thoáng bóng nàng lướt qua má mình như một cái hôn, rồi tan mất trong bóng tối. Cũng vì yêu, Orphée đã quên lời hứa hẹn với hai vị thần cõi chết, và vĩnh viễn bị mất Eurydice.
Tình sử này có một đoạn tiếp theo, không đáng kể. Chuyện « Orphée và Eurydice » gợi hứng cho nhiều tác gia. Trong các tác phẩm nổi tiếng, có thể kể vở nhạc kịch 5 hồi « Orfeo » của Monteverdi (1607), vở nhạc kịch 3 hồi « Orphée » của Gluck (1762), và vở nhạc kịch « giễu nhại » (opéra parodique) « Orphée aux enfers » của Offenbach (1858).

TTđTD - theo buitronglieu.net (Trích chương 5 - Học gần, học xa)
Ảnh minh họa: Thái Phiên và Internet 

Popular Posts