Gần đây có giúp một họ trong một làng quê sửa chữa, khôi phục một cuốn tộc phả có giá trị. Cuốn tộc phả đó phản ánh thăng trầm của một dòng họ trải hơn năm trăm năm, cho đến trước Cách mạng Tháng Tám, bản chép tay chữ Việt nằm dưới đáy ba lô của một vị cán bộ, một người con trong họ giữ được qua hai cuộc kháng chiến. Được ông và vị đại diện của dòng họ cho phép, tôi xin kể câu chuyện sau đây.
Đời thứ nhất của dòng họ bắt nguồn từ một đôi vợ chồng thuần phác, không biết từ đâu đến lập nghiệp ở một làng quê ven đô Thăng Long (tức Hà Nội bây giờ) lấy nghề nông làm nghề sinh nhai. Ngoài ra, thỉnh thoảng cụ bà, một người con gái có nghề buôn thuốc bắc, còn lên Thăng Long cất hàng mang về cho các thầy lang trong vùng. Mỗi bận đi về như thế mất hai ngày. Một hôm, hai cụ đi cất hàng ở một hiệu Khách (chủ hiệu nguời Tàu) mang về nhà, khi soạn lại thấy trong lọ hoả dược (diêm sinh) có đôi hoa tai vàng chạm trổ óng ánh, mỗi góc cạnh một vẻ, càng nhìn càng ưa, đẹp ngơ ngẩn cả người. Các cụ bàn tính: Của quý này tự dưng vào tay ta, ta cất dấu đi thì chả ai biết đấy là đâu. Nhưng nó không phải của ta. Đã không phải của ta mà ta cứ dùng thì nó là đồ phi nghĩa. Vợ chồng ta tuy một chữ bẻ đôi không biết nhưng thi thoảng được hầu chuyện các thầy lang, được hay trên đời có hai hạng quân tử với lại tiểu nhân. Ta muốn làm bậc quân tử sao lại dùng đồ phi nghĩa? Thôi thôi cứ mang trả là hơn. Nghĩ vậy, hai cụ bèn cứ cất công ra Thăng Long trả đôi hoa tai vàng cho chủ hiệu. Cả nhà ông chủ hiệu người Tàu đều giật mình kinh ngạc, vì cứ nghĩ rằng báu vật đã không cánh mà bay mất. Họ hết lời cảm tạ, mang bao nhiêu là của ngon vật lạ ra biếu hai cụ, nhưng hai cụ nhất định không chịu nhận, nói rằng còn để phúc cho con cháu về sau. Người chủ hiệu không biết làm thế nào, chỉ còn dặn với khi hai cụ ra về: Thôi thế chúng tôi đội ơn hai bác, để khi nào có thầy địa lý hay bên nhà sang, chúng tôi sẽ nói tìm cho các cụ nhà ta một ngôi đất phát phúc. Hai cụ miễn cưỡng vâng. chuyện ấy lâu dần quên đi. Mãi cho đến đời cụ tổ thứ ba, lúc bấy giờ vào triều vua Lê Chân Tôn, một hôm hai mẹ con vừa đi đồng về, đang băm bèo thái rau. Bỗng thấy các viên chức dịch dẫn quân lính vào nhà mời cả ba mẹ con ra ngoài cánh đồng có việc hệ trọng. Cụ bà và hai con đều giật mình, nửa mừng nửa sợ. Mừng vì thấy được chức dịch và quân lính lễ phép chào mời, sợ vì không hiểu có việc gì, đành phải theo đi. Ra khỏi cổng làng thì thấy có cờ xí rợp một quãng đồng, quân Tàu, quân ta đứng xúm xít dưới gốc gạo Mã Nàng, tiếng chiêng trống như ngày hội. Các quan chức khăn đóng áo dài chững chạc. Ngồi giữa chiếu là một viên quan Tàu mũ, áo, lọng, biển sáng trưng. Ba mẹ con sụp lạy xong, người thông ngôn mới dẫn dụ một hồi cho biết đầu đuôi câu chuyện. Số là ba đời trước có chuyện cụ tổ đem trả lại đôi hoa tai vàng. Đó là đôi hoa tai của chính cung Hoàng hậu bên Tàu. Cô em gái người chủ hiệu thuốc ở Thăng Long mới được tuyển vào làm đệ nhị cung phi có mượn của Hoàng hậu đôi hoa tai ấy, giao cho ông anh kén loại vàng mười ở nước Nam, theo mẫu kéo hai đôi nữa là đồ tiến. Chủ hiệu vàng chưa kịp tìm thợ khởi công thì đôi hoa tai đã biến mất. Thì ra cậu con trai quý tử có lần lén lấy chơi, tiện tay bỏ vào lọ hoả dược rồi quên béng mất. Cả hiệu đang lo cuống lo cuồng về chuyện tày trời thì được người khách quê mang lên trả báu vật. Ơn ấy, người nhà quê quên đi nhưng ông chủ hiệu thì nhớ. Trước khi qua đời, ông chủ hiệu già có di chúc lại cho con cháu thế nào cũng phải thực hiện lời hứa, đón thày địa lý hay về làng để trả ơn. Nay người cháu của ông chủ hiệu làm quan bên Bắc triều, tuân theo lời di chúc, nhân sang dự lễ phong vương nước Nam, có mang theo thày địa lý chính tông đến cánh đồng đây đặt cho con cháu người một ngôi đất phát phúc. Ông thông ngôn nói xong, quan Tàu bèn gọi hai người con cụ đến gần để hỏi ý kiến. Thầy địa lý nói: Cũng ngôi đất này xoay hướng nọ thì phát phú gia địch quốc, nhưng chỉ được một đời, còn về đường văn học một chữ cũng không. Xoay về hướng kia, toạ Khôn hướng Cấn (*) thì phát về đường văn, đời đời chỉ học đỗ tới mức cử nhân, tú tài, còn hơn kém cũng chỉ chút ít, nhưng văn mạch thì lưu truyền mãi mãi không bao giờ hết. Vậy nhà ta muốn chọn hướng nào? Hai người con xin phép lui ra để bàn với mẹ. Ba mẹ con bàn tính một hồi, người con cả mạnh bạo thưa với quan Tàu: “Đất phát cư phú mà văn lại khảo bảy ngày không biết một chữ thì của dẫu nhiều chẳng khác gì người giữ của, huống chi lại không bền. Đất phát văn dẫu rằng chỉ đỗ đạt nho nhỏ nhưng được lâu dài, hưởng phúc không bao giờ hết. Ăn dè được lâu, cày sâu tốt lúa. Chúng tôi xin thuận về đường phát văn.” Quan sứ Tàu và hai vị địa sư tấm tắc khen ba mẹ con biết nghĩ xa. Bèn truyền lệnh đào chính giữa một gò đất, sâu hơn hai dải thừng, rồi phân kim táng mộ cụ tổ đời thứ ba chính giữa mắt con phượng, kiểu Phượng hoàng hàm thư. Đoạn quân trẩy về kinh. Ba mẹ con về nhà tâm niệm con đường khoa cử bèn rước thầy về rèn cặp ngày đêm. Quả nhiên người con trưởng đã khai khẩn rừng Nho cho cả gia tộc. Năm 17 tuổi cụ thi đỗ tú tài. Sau này cả họ tôn vinh cụ là Khai khoa triệu tổ, vị tổ mở đầu dòng khoa bảng cho cả học. Các tổ đời thứ tư, thứ năm đều có người đỗ tú tái, cử nhân. Rồi đến đời thứ sáu, có một nhánh phát triển rực rỡ rồi đột ngột rơi xuống vực thẳm. Một cụ tổ thông minh, học giỏi đậu đến Tiến sĩ được bổ làm Đốc đồng một tỉnh miền núi, làm vẻ vang cho cả họ. Do những cuộc xung đột nội bộ giữa các quan cai trị ở địa phương - cuộc xung đột này phản ánh cuộc xung đột giữa vua Lê và chúa trịnh – đã dẫn tới những âm mưu hãm hại lẫn nhau. Cụ tổ có học vị Tiến sĩ duy nhất của gia tộc đã cầm gươm tự sát để tỏ lòng trung với vua. Và tất cả những người trong gia đình, các nhân thân đi theo đã tự vẫn theo, cả thảy hơn 20 người. Trên bản đồ cây gia tộc, nhánh ấy bị cụt.
Vị đại diện dòng họ buồn rầu kể tiếp: Sau vụ bi thảm đó, họ chúng tôi rút ra một kinh nghiệm lịch sử và truyền lại cho đến hôm nay. Là khí thiêng của địa lý đã định ra như thế, thì người trong gia tộc phải biết cái hành lang số phận của mình. Có thể do mật mã di truyền, ngày nay ta hiểu như thế, đến một đời nào đó đột xuất có người thông minh kiệt xuất, đường công danh phú quý vượt trội hẳn lên. Nhưng xin hãy nhớ mộ tổ táng ở đâu và biết biết dừng lại khi chưa là quá muộn. Đây, ông chỉ vào cây gia tộc, hiện nay họ chúng tôi có hai nhánh khá là sum xuê. Một nhánh biết kinh doanh, giàu lên trông thấy, con cháu đều ăn nên làm ra, nhưng không thể ở quê nhà, phải ly hương ít nhất ba đời nay, hiện có người lập nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, có người trôi giạt sang Mĩ… Một nhánh khác vươn lên toả bóng, sau này thành một cụm lớn, trung tâm của gia tộc, trong đó có một chú phát triển về đường quan chức cách mạng cũng khá là nhanh, tới hàm thứ trưởng. Nhưng chú ta cũng biết phận mình, vừa đúng tuổi hưu là làm đơn xin rút liền, may được Trung Ương đồng ý. Chú ta bảo: Trong nội bộ cơ quan em, đã xuất hiện những triệu chứng bất hoà, tính em lại thẳng, em mà ở lại chỉ một năm nữa thôi là có thể nguy to. Sau một ngày xuân về viếng mộ tổ, em quyết định dừng luôn, tự mình đình chỉ luôn, không ham hố nữa, để phúc cho con cháu. Như vậy đấy, con người phải biết điều với số phận của mình, trong họ chúng tôi không còn ai có học vị cao nữa. Học đều đều, Cử nhân, Tú tài, là cao nhất. Nhà nhà đều vừa đủ để mát mặt với hàng xóm, chúng tôi không có gì để ân hận. Anh thấy vấn đề địa linh có ghê không?
Trích: "Tích hợp đa văn hoá Đông Tây cho chiến lược giáo dục tương lai" của GS. Nguyễn Hoàng Phương
No comments:
Post a Comment