TTđTD - Thần thông và nghiệp lực là nội dung mà giáo lý nhà Phật đề cặp khá nhiều. Nhưng để hiểu đầy đủ và tường tận về nó không dễ! Chúng ta thử cùng tìm hiểu nội dung này qua bài viết của Hoà thượng Thích Thanh Từ.Đa  số Phật tử tu theo đạo Phật không nhiều thì ít đều có liên tưởng đến  những hiện tượng huyền bí, đó là thần thông. Vậy thần thông có phải là  cái chúng ta nương tựa, để cho chúng ta tin cậy, để cho chúng ta học hỏi  luyện tập không? 
 
Khi  Phật cón tại thế, Tôn Giả Mục Kiền Liên sau khi chứng quả A La Hán,  Ngài có đủ lục thông. Song, đối với những vị chứng A La Hán như Ngài,  Ngài là người ưu việt hơn cả. Nên Phật nói Tôn Giả Mục Kiền Liên thần  thông đệ nhất trong hàng đệ tử lớn của Phật. Vì thần thông siêu việt nên  Tôn Giả có thể dùng thần thông đi từ thế giới này đến thế giới nọ trong  chớp mắt, hoặc dùng thần thông hóa hiện tùy ý. Khi ấy Phật ngự trên một  từng lầu, dưới tầng trệt các tỳ kheo nói chuyện ồn ào. Phật bảo Tôn Giả  Mục Kiền Liên làm cho các tỳ kheo đó đừng làm ồn nữa. Tôn Giả liền duỗi  chân ra thì cái nhà xoay tròn, chư tỳ kheo hoảng hốt không dám nói  chuyện nữa. 
Với  sức thần thông siêu việt như thế, vì lòng hiếu thảo Ngài dùng thiên  nhãn thông tìm trong lục đạo coi mẹ Ngài sinh ở đâu, Ngài thấy bà đang  mang thân ngạ quỉ khổ vô cùng. Ngài thương xót mẹ, nên đi khất thực được  một bát cơm liền vận thần thông đem đến dâng cho mẹ. Khi được cơm, tay  trái bà bưng bát cơm, tay mặt bốc cơm để vào miệng, cơm vừa tới miệng  liền hóa thành lửa. Tôn Giả Mục Kiền Liên thấy mẹ ăn cơm không được khổ  sở vô cùng, Tôn Giả rơi nước mắt.  
Chúng  ta đặt lại vấn đề, nếu thần thông của Tôn Giả Mục Kiền Liên siêu việt  thì khi mẹ Ngài ăn cơm, cơm hóa thành lửa, tại sao Ngài không dùng thần  thông thổi tắt lửa để mẹ Ngài dùng cho no lòng, mà lại đứng khóc? Vậy,  quý vị nghĩ sao về thần thông của Ngài và nghiệp ác mà mẹ Ngài gây ra?  Để thấy, thần thông không cứu được nghiệp ác của người thân. Nếu tu để  có thần thông, mà không cứu được ai hết thì có thần thông làm gì? Toàn  chúng đệ tử Phật đều tôn xưng Ngài là người thần thông bậc nhất. Vậy mà  trước cảnh khổ đau bi đát của mẹ, Ngài không có một phương tiện giải  cứu, mà chỉ đứng khóc. Như vậy mới thấy thần thông không chi phối được  nghiệp lực. Hai cái khác biệt nhau rõ ràng. Thần thông không đưa người  đến sự an lạc vĩnh viễn mà cũng không giải cứu được ác nghiệp cho người  đau khổ. Vậy, tu thiết tha mong cầu chứng đắc thần thông? hay tu cốt để  đoạn các nghiệp ác, để tránh khỏi khổ đau đang chi phối cả kiếp người?  
Sau đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên trở về thuật lại cảnh khổ của mẹ Ngài và cầu xin Phật dùng phương tiện giải cứu. Phật dạy:  
-Mẹ người nghiệp ác quá nặng, sức người không thể cứu được. Người phải làm lễ Vu Lan thiết đãi chư Tăng.  
Sơn lâm thiền định  
Thọ hạ kinh hành  
Lục thông La Hán  
Nhờ oai lực của các vị này cầu nguyện, thì mẹ ngươi mới thoát được kiếp ngạ quỉ.  
Khi  đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật sắm sửa trai diên, thỉnh  chư Tăng đang thiền tịnh ở núi rừng, đang kinh hành dưới cội cây, là  những bậc đã chứng lục thông A La Hán cùng trợ lực cầu nguyện thì mẹ  Ngài thoát kiếp nga quỉ. Vì lý do Tôn Giả Mục Kiền Liên không đủ sức cứu  mẹ, nên phải nhờ số đông chư Tăng đã chứng A La Hán trợ lực mới cứu  được mẹ Ngài.  
Chính  sự kiện này mà về sau hàng Phật tử noi theo gương hiếu thảo của Tôn Giả  Mục Kiền Liên, là một bậc xuất gia tu hành chứng A La Hán, không quên  công ơn cha mẹ, vẫn nhớ và muốn đền đáp. Nên hàng Phật tử sau mùa an cư  tự tứ của chúng Tăng, đều làm lễ Vu Lan thỉnh chư Tăng cúng dường cầu  siêu. Đó là việc làm đạo đức căn bản.  
Tuy  nhiên chư Tăng hiện thời không phải là những bậc thiền định chứng lục  thông A La Hán như Phật đã dạy Tôn Giả Mục Kiền Liên thỉnh cúng dường,  cầu nguyện cho Ngài. Nên sự cầu nguyện của chư Tăng hiện thời không bảo  đảm được như ý nguyện của Phật tử. Nhưng tại sao mỗi năm vào rằm tháng  bảy Phật tử tụ hội về chùa làm lễ Vu Lan để làm gì? Điều này Phật tử nên  hiểu cho tường tận. 
Với  tấm lòng hiếu thảo của người Phật tử, mỗi khi nhớ lại gương sáng của  đức Mục Kiền Liên, là người đã cắt ái lìa thân xuất gia hành đạo, quyên  hết chuyện nhà mà vẫn không quyên ơn sanh dưỡng của cha mẹ, biết mẹ bị  quả báo làm ngạ quỉ, tìm mọi phương tiện cứu mẹ thoát khổ của kiếp ngạ  quỉ. Theo gương hiếu thảo của Tôn Giả Mục Kiền Liên, nên ngày nay Phật  tử làm lễ Vu Lan để tỏ lòng hiếu thảo nhớ ơn cha mẹ, và mong cứu cha mẹ  thoát khỏi cảnh khổ. Đến chùa vì hiếu nghĩa, vì nhớ ơn để cầu nguyện cho  cha mẹ, đó là tinh thần từ thiện tốt đẹp. Nhưng nếu tin chắc cha mẹ  thoát khổ thì không bảo đảm.  
Trong  kinh A Hàm, Phật có nói: "Người biết ơn và đền ơn, dù ở xa ngàn dặm,  cũng như hầu cận bên ta; ngược lại, người không biết ơn và không đền ơn  dù ở hầu cạnh bên ta cũng cách xa ta ngàn dặm". Phật dạy đạo đức bắt  nguồn từ chỗ biết ơn và đền ơn. Người lương thiện là người thọ ơn ai  không bao giờ quên. Những lúc mình nguy khốn được người giúp đỡ, khi  người hoạn nạn thì mình sẵn sàng giúp đỡ lại không ngại khó khổ gian  lao.  
Trong  kinh Ưu Bà Tắc giới, Phật có dạy: trời nắng người đi đường vào bóng cây  núp mát, khi ra đi không được bẻ cành cây. Và trên đường đi được bóng  cây hai bên đường che mát, Phật cấm không được bẻ lá cây, vì cây có cái  ơn che mát cho chúng ta trên đường dài nóng bức. Đối với cái ân rất nhỏ  của loài vô tri mà Phật còn không cho phép chúng ta quên ơn, huống là  cái ơn sanh dưỡng lớn lao của cha mẹ. Nếu ơn sanh dưỡng sâu nặng mà  chúng ta quên đi thì những cái ơn khác không dễ gì nhớ được. Ở đời cũng  có lắm kẻ được người giúp đỡ qua cơn nguy khốn, sau đó đối với người ơn  của họ, họ ngoảnh mặt làm kẻ xa lạ.  
Cũng  như những đứa con ngỗ nghịch không tiếc lời nặng nhẹ khảo tra tiền của  cha mẹ, cha mẹ đến tuổi già yếu đói no sướng khổ con cái không buồn nghĩ  đến. Người như thế là người không biết ơn và đền ơn, không phải là  người lương thiện. Thế nên, người đạo đức chân thật là người biết ơn và  nhớ ơn sanh dưỡng của cha mẹ. Dù cha mẹ còn hay mất, mỗi mùa Vu Lan đến,  người con hiếu thảo vì cha mẹ làm việc phước thiện để hướng tâm tưởng  thiện lành đến với cha mẹ, mong cha mẹ được nhẹ nhàng hết khổ. Đó là kẻ  biết ơn và đền ơn mà thế gian thường nói "Uống nước nhớ nguồn, ăn trái  nhớ kẻ trồng cây". Nhớ ơn cha mẹ là đạo đức căn bản vậy.  
Có  một lần Phật đi khất thực ở vùng mất mùa, dân trong làng ai cũng nghèo  đói. Phật đi từ sáng đến trưa không có người cúng dường, trong bát Phật  không có thức ăn. Khi đó có một thầy tỳ kheo đem lá y mới của mình đổi  được một bát cơm, vội vàng đem dâng Phật. Phật hỏi:  
-Ông còn cha mẹ không?  
Tỳ kheo trả lời:  
-Bạch Thế Tôn, con còn bà mẹ.  
Phật hỏi:  
-Mẹ ông sáng nay có ăn cơm chưa?  
Tỳ kheo đáp:  
-Bạch Thế Tôn, con đổi một lá y chỉ được một bát cơm, con dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn.  
Phật dạy:  
-Người đáng thọ nhận bát cơm này là mẹ của ông.  
Qua  câu chuyện trên, chúng ta thấy Phật rất chú trọng đến đức hiếu thảo của  con người. Nếu người tu hành không nhớ công ơn cha mẹ thì việc tu hành  chỉ là việc làm ích kỷ, không có cơ bản đạo đức. Chúng ta tu là vì  thương cha mẹ, thương thân bằng quyến thuộc, thương dân tộc, thương nhân  loại, nên nỗ lực tu hành để rồi khuyên những người thân người sơ cố  gắng tiến trên con đường đạo đức, làm đẹp cho người, làm đẹp cho quê  hương xứ sở. Đâu phải vong ân cha mẹ, quên thân bằng quyến thuộc, phản  bội quốc dân mà đi tu. Dù là người xuất gia hay cư sĩ tại gia đều phải  lấy công ơn cha mẹ làm gốc để tu hành. Vì vậy, mỗi năm tới mùa báo hiếu,  Phật tử qui tụ về chùa, trước là đem lòng thành kính nguyện Tam Bảo gia  hộ cho cha mẹ sớm được về cõi Phật. Kế đó, vì cha mẹ mà làm lành tu  thiện, cứu giúp người nghèo khổ và nhắc nhở khuyến khích hướng dẫn con  cháu tiến trên con đường đạo. Đó là nền tảng đạo đức đời đời không  quên.  
Tăng  Ni hiện nay tuy không đủ tư cách như Phật dạy trong kinh Vu Lan, nhưng  dù sao đi nữa, một người tu an chay, bỏ ác làm thiện cũng có chút công  đức lành góp phần với quý vị Phật tử, cùng hồi hướng cùng cầu nguyện cho  cha mẹ. Đó là cội nguồn của ngày lễ Vu Lan. Vì vậy nếu đã là đệ tử của  Phật, phải nhớ rằng tu với Phật không bằng tu với cha mẹ. Vì Phật đã  giải thoát mọi khổ đau, dù cho chúng ta có đảnh lễ tán thán đến đâu,  Ngài vẫn bình thản mặc nhiên. Còn cha mẹ chưa hết phiền não nên mỗi khi  con cháu tỏ lòng hiếu thảo, biết nghĩ tưởng đến thì cha mẹ hoan hỷ sung  sướng. Thế nên chúng ta thường làm cha mẹ vui, Chẳng phải chỉ lo lạy  Phật cúng Phật mà quên không lo phụng dưỡng hiếu kính cha mẹ. Người tu  như thế thì chưa đúng với tinh thần của đạo Phật.  
Người  Phật tử muốn đền đáp công ơn của cha mẹ, trường hợp thứ nhất khi cha mẹ  còn sanh tiền, muốn cho cha mẹ an vui trong hiện đời và an vui trong  mai hậu, ngoài việc cung phụng nuôi dưỡng cha mẹ về mặt vật chất, nếu  cha mẹ chưa biết đạo, phải tạo duyên tốt khiến cho cha mẹ phát tâm tu  hành bỏ ác làm lành. Vì người phát tâm làm lành mới khỏi đọa ba đường ác  sanh vào cõi thiện được an vui. Cho cha mẹ ăn ngon, mặc đẹp, ở sang,  tuy là hiếu thảo, nhưng hiếu thảo đó chỉ là tạm bợ không lâu dài, vì cha  mẹ sẽ chết không còn hưởng dụng những thứ đó nữa. Tạo duyên lành cho  cha mẹ hướng về đường thiện, thì chẳng những bảo đảm trong đời này ít  khổ đau mà đời sau cũng hết đau khổ. Chính việc làm đó mới là cái hiếu  chân thật. Vì vậy, quý Phật tử ai được vinh hạnh cha mẹ còn tại tiền,  hãy ráng tạo điều kiện giúp cho cha mẹ tu hành, đó là cái hiếu lớn  nhất.  
Trường  hợp thứ hai là khi cha mẹ quá cố rồi. Chúng ta không làm gì khác được,  nên mới cúng dường cầu nguyện hồi hướng phước lành cho cha mẹ được siêu  thoát. Đó là việc làm cầu may chứ không bảo đảm kết quả như ý. Nhiều khi  quý Phật tử nghĩ đến người chết mà quên hẳn người sống. Đến rằm tháng  bảy cúng kiến cầu nguyện cho ông bà tổ tiên được siêu sanh tịnh độ mà  ông bà cha mẹ tại tiền thì không để ý chăm sóc giúp đỡ để tiến tu. Như  thế là không xứng đáng, không đúng với chữ hiếu trong đạo Phật.  
Trở  lại, thần thông không cứu được khổ, không giải được nghiệp. Như chúng  ta biết Tôn Giả Mục Kiền Liên đã từng dùng thần thông qua lại trong  không gian từ cõi này đến cõi khác một cách tự do. Nhưng đối trước quả  báo nghiệp ác của mẹ Ngài, Ngài đành bó tay đứng khóc chứ không cứu  được, đó là trường hợp thứ nhất.  
Đến  trường hợp thứ hai là chính bản thân Ngài khi trở về già, một hôm đi  khất thực qua chân núi, ngoại đạo lăn đá cho rớt xuống đè Ngài chết.  Bình thường có chuyện bất ổn xảy ra là Ngài dùng thần thông bay bổng,  không ai hại được Ngài. Bây giờ nghiệp đến, thấy đá lăn từ trên xuống,  Ngài dùng thần thông bay đi mà bay không được, nên bị đá đè chết. Để  thấy thần thông bất lực trước quả báo nghiệp ác của Ngài, thần thông  cũng không giải được nghiệp của chính mình khi quả báo đến. Như vậy  luyện tập thần thông để làm gì?  
Song,  tâm lý chung của Phật tử thì ưa thích thần thông với những tướng lạ  thường. Giả sử bây giờ quý vị đang ngồi nghe tôi nói pháp, ngoài kia có  người đang vận thần thông bay lên dạo chơi trong hư không, quý vị sẽ  cùng đua nhau xem họ trình diễn thần thông, chớ không thể ngồi yên mà  nghe pháp. Vì bản chất của con người là hiếu kỳ, ưa thích những điều  khác lạ, còn những gì bình thường đơn giản thì không ưa chuộng. Tu, nếu  bảo dùng nghiệp ác của thân của miệng của ý, chuyển thành ba nghiệp  thiện thì thấy thường và khó làm. Còn, nếu nói tôi có thần thông, ai  muốn được hết tội, tôi hóa ra nước Cam Lồ rưới sẽ hết phiền não, thì mọi  người ham thích đua nhau xin nước Cam Lồ để tắm gội hay để uống cho hết  tội. Vì người ta vừa hiếu kỳ vừa lười biếng, hễ thấy dễ khoẻ là làm, Vì  vậy, nên dễ bị gạt và để rơi vào mê tín tà giáo.  
Thời Đức Phật còn tại thế, có bốn ngoại đạo tu chứng được ngũ thông:  
-Thiên nhãn thông là thấy tất cà người vật gần hay xa.  
-Thiên nhĩ thông là nghe khắp tất cà âm thanh lớn nhỏ gần xa.  
-Thiên tâm thông là biết được ý người khi mới vừa khởi nghĩ chưa nói ra lời.  
-Thần túc thông là biến hóa thân hình lớn nhỏ tùy ý, thăng thiên độn thổ không ngại.  
-Túc mạng thông là biết được vô số kiếp về trước.  
Bốn  vị này biết mình sắp bị quỉ vô thường đến bắt đi, nên mỗi người tìm  cách để trốn thoát thần chết. Vị thứ nhất dùng thần thông bay lên hư  không núp trong đám mây xanh. Vị thứ hai vận thần thông lặn xuống đáy  biển. Vị thứ ba dùng thần thông chui vô lòng núi. Vị thứ tư thì chui  trốn ở trong lòng đất. Tất cả bốn vị đều nghĩ rằng chỗ mình trốn, quỉ vô  thường không thể tìm được.  
Nhưng  đến giờ thần chết đến thì vị thứ nhất ở trên mây hết thần thông rớt  xuống nát thây. Vị thứ hai ở dưới đáy biển hết thần thông ngộp chết nổi  lên. Vị thứ ba ở trong lòng núi hết thần thông đá nứt đè chết. Vị thứ tư  ở trong lòng đất hết thần thông bị đất sụp chôn thây luôn.  
Để  thấy, tu chứng được thần thông muốn thoát chết vẫn không thoát được. Tu  mà chứng được ngũ thông là đã trải qua quá trình tu tập không phải ngắn  và dễ dàng, thế mà muốn thoát chết cũng không thoát được.  
Lại  một trường hợp nữa: Có một vị tu sĩ đạt đạo chứng được ngũ thông,  thuyết giảng giáo lý rất hay cho đến trời Đế Thích cũng đến nghe. Một  hôm, trời Đế Thích nghe giảng xong ra ngồi gốc cây khóc. Vị tu sĩ ấy lấy  làm lạ hỏi:  
-Tại sao nghe giảng xong ông lại khóc, tôi giảng có chỗ nào ông không đồng ý?  
Đế Thích đáp:  
-Không, Ngài giảng rất hay, vì tôi thấy ngài sắp chết nên tôi thương khóc.  
Tu sĩ hỏi:  
-Vậy phải làm sao cho tôi khỏi chết?  
Đế Thích đáp:  
-Nếu Ngài muốn khỏi chết, hãy đến cầu cứu với Đức Phật Thích Ca.  
Tu sĩ hỏi:  
-Đức Phật Thích Ca là ai Đang ở đâu?  
Đế Thích đáp:  
-Ngài là một vị giác ngộ hoàn toàn sạch hết vô minh lậu hoặc, đang ở tịnh xá Trúc Lâm gần thành vương xá.  
Vị  tu sĩ bèn vận thần thông bay đi tìm Phật. Đi dọc đường, ông nghĩ rằng  đi cầu Phật dạy nên có lễ vật để cúng dường Ngài. Ông thấy bên đường có  những cây ngô đồng đang trổ hoa thật đẹp, bèn nhổ và cầm đến cúng Phật.  Khi tới tịnh xá Trúc Lâm, thấy Phật đang ngồi thuyết pháp cho chúng tỳ  kheo nghe, ông vào quì xuống dâng hai cây ngô đồng lên Phật và thưa:  
-Thưa Thế Tôn, con xin cúng dường Ngài hai cây ngô đồng và cầu xin Ngài dạy cho con phương pháp tu để khỏi chết.  
Lúc đó Phật không dạy gì hết, chỉ bảo:  
-Buông !  
Tu sĩ buông tay thứ nhất, ngã cây ngô đồng thứ nhất. Phật lại bảo:  
-Buông !  
Tu sĩ buông tay thứ hai, ngã cây ngô đồng thứ hai. Phật nói tiếp:  
-Buông !  
Tu sĩ sửng sốt thưa:  
-Hai  tay con cầm hai cây ngô đồng, lần thứ nhất Phật bảo buông, lần thứ hai  Phật bảo buông, con buông cây thứ hai là hết. Phật bảo con buông nữa con  không biết buông cái gì?  
Phật nói:  
-Ta  đâu có bảo ông buông hai cây ngô đồng. Lần thứ nhất ta bảo ông buông là  đừng chạy theo ngoại cảnh. Lần thứ hai ta bảo ông buông là đừng chấp  sáu căn là ngã. Lần thứ ba ta bảo ông buông là không chấp sáu thức là  ngã. Nếu ông buông hết ba cái đó thì ông hết chết.  
Nghe  Phật nói, tu sĩ nhận ra yếu chỉ, tu một thời gian chứng A La Hán. Hết  chết là không còn nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử, chứ không phải  thân tứ đại hiện đời không hoại, không chết, phải hiểu rõ chỗ này. Để  thấy, dù có tu có luyện thần thông đến đâu, mà chưa buông xả được cảnh,  thân và tâm thức thì cũng chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi.  
Lại một Đạo sĩ và một Thiền sư, hai vị cùng đi chung một con đường. Đạo sĩ hỏi Thiền sư:  
-Thầy tu lâu chưa?  
-Lâu rồi.  
-Thầy chứng thần thông chưa?  
-Tôi tu không có thần thông. Vậy đạo sĩ có thần thông không?  
- Có.  
Hai vị cùng đi tới một bến đò, Đạo sĩ muốn thi thố thần thông cho Thiền sư thấy bèn rủ:  
-Thôi chúng ta đi qua.  
Đạo sĩ qua sông mà không đi đò. Thiền sư nói:  
-Thôi, Đạo sĩ cứ qua đi.  
Đạo  sĩ liền vén áo đi trên mặt nước qua bên kia bờ. Còn Thiền sư thì đến  bến đò mua vé lên đò, qua sông. Khi qua bờ bên kia, Đạo sĩ gặp lại Thiền  sư ra vẻ tự hào, nói:  
-Thầy thấy tôi không?  
-Đạo sĩ tập luyện thuật đi trên nước mất bao nhiêu năm?  
-Hết hai mươi năm.  
Thiền sư cười nói:  
-Công phu luyện tập 20 năm của Đạo sĩ đáng giá bằng hai xu tôi qua đò !  
Tốn  hai xu cũng đi qua sông được mà phải luyện tập hai mươi năm được thần  thông cũng để qua sông, thì có giá trị gì??? Thiền Tông không trọng thần  thông, coi đó chỉ là trò biểu diễn vui chơi, không giải cứu được khổ  đau của con người. Thế mà người đời không biết, rất hâm mộ nể phục thần  thông.  
Trở  về nguồn, khi Thái tử Sĩ Đạt Ta tu sắp thành đạo dưới cội cây bồ đề, ma  Ba Tuần biết Ngài sắp chứng đạo nên cùng nhau đến phá Ngài. Quân ma có  tới 18 ức bao vây Ngài dưới cội bồ đề. Ma bảo:  
-Sa Môn mau đứng đậy.  
Thái tử lặng thinh không đáp, như thế đến ba lần. Ma hỏi:  
-Sa Môn sợ ta chăng?  
Thái tử đáp:  
-Ta không kinh sợ.  
Ma hỏi:  
-Sa Môn thấy bốn chúng binh của ta chăng? Ông chỉ một mình, không binh khí, đầu cạo, mặc y bày thân, lại nói không sợ?  
Thái tử đáp bằng bài kệ:  
"Giáp nhơn, cung tam muội 
Tay cầm tên trí tuệ 
Phước nghiệp làm binh khí 
Nay sẽ phá quân ngươi" 
Ma bảo:  
-Nếu không nghe theo lời ta, ta sẽ làm cho thân hình ông tan thành tro bụi.  
Thái tử nói:  
-Ta  tự xem xét trên cõi người ma và thiên ma, nhơn và phi nhơn cùng bốn bộ  chúng của ngươi không thể đụng được một mảy lông của ta.  
Ma nói:  
-Sa môn, nay muốn cùng ta giao chiến chăng?  
Thái tử đáp:  
-Muốn được giao chiến.  
Bấy giờ Thái tử mặc áo giáp nhơn từ, Ngài dùng cung tam muội, tên trí tuệ, và binh khí phước nghiệp để giao chiến với ma quân.  
Ngày  nay, chúng ta tu một mình ở nơi vắng vẻ có nhiều ma, thì quý thầy dạy  nên học thuộc các câu chú, về những là bùa để trừ tà ma, hoặc để con dao  hay cái rựa bên cạnh phòng khi đối trị ma quái.  
Xưa  Phật chiến đấu với ma quân Ngài mặc áo giáp từ bi, cầm cung thiền định,  bắn tên trí tuệ và dùng phước đức làm binh khí để chiến đấu với quân  ma.  
Chúng  ta thấy Đức Phật đơn độc một mình chỉ và sử dụng có bốn loại khí giới  là từ bi, thiền định, trí tuệ, và phước đức mà chiến thắng được ma quân  một cách vẻ vang. Sở dĩ Phật chiến thắng đựợc ma quân là vì Ngài có tâm  từ bi vô lượng vô biên không oán không thù ai, nên ma không hại được.  Còn chúng ta thì lòng từ chưa bủa khắp, xử kỷ tiếp vật còn thân còn sơ  nên ma tham ma sân có chỗ vào, vì vậy mà cứ mãi thua ma (dài dài); Đó là  yếu tố thứ nhất.  
Yếu  tố thứ hai là tâm Phật luôn luôn an định, dù ma có hiện hình tướng kỳ  quái thô bạo dữ dằn đến đâu, Ngài vẫn mặc nhiên không run không sợ nên  ma không hại được. Bây giờ nếu chúng ta tu nếu gặp ma hiện vằn mặt đỏ  trong đêm tối, thì hoảng hốt chạy ra, không giữ được bình tĩnh đó là do  tâm không an định, vì tâm không an định nên sợ và thua ma.  
Yếu  tố thứ ba là với trí tuệ sáng suốt. Phật thấy rõ thân này không thật  thì các tướng mạo của ma quỉ nào có thật! Nên không bị chi phối bởi ma,  chúng ta vì trí tuệ chưa sáng, thấy thân này thật, ma cũng thật, sanh  tâm kinh sợ nên bị ma hại.  
Yếu  tố thứ tư là phước nghiệp, Đức Phật do công phu tu tập, làm lợi ích  chúng sanh, phước đức kết nhóm nhiều đời nhiều kiếp nên ma không hại  được. Chúng ta tu sở dĩ thường gặp chướng nạn ma nạn là vì phước đức  mỏng, sức tu tập yếu nên bị ma nhiếp được dễ dàng.  
Tôi  thường nói chúng ta tu đừng ỷ mình thông minh, đừng ỷ mình tài giỏi,  cũng đừng ỷ mình khôn lanh là có thể hanh thông trên đường tu tiến, mà  phải xét nét công hanh tu tập của mình. Nếu thấy phước đức mình cạn mỏng  thì lo vun bồi cho được sâu dầy hầu giúp mình vượt qua mọi chướng nạn  và tiến đến chỗ cứu cánh viên mãn. Vì có rất nhiều người khôn lanh thông  minh tài giỏi mà không tránh được chướng nạn khổ đau. Ngược lại, người  có nhiều phước đức thì vượt qua tất cả mọi chướng ngại, sự tu tập dễ  dàng tiến mau nên được kết quả tốt.  
Chúng  ta thấy, Đức Phật khi chiến đấu với ma quân, chỉ dùng có bốn loại binh  khí: Nhân từ là do tự tâm phát khởi lòng thương yêu tất cả mọi loài.  Chánh định là do lóng lặng tâm tư mà được thanh tịnh, nhờ tâm thanh tịnh  nên trí tuệ phát sáng. Còn phước nghiệp là do công hạnh làm lợi ích cho  mọi loài. Chính bốn đức ấy hóa giải sự nhiễu hại của ma quân ở chính  mình. Như vậy, chúng ta vào đạo là phải giữ tâm không oán không thù lần  lần để tâm lóng lặng cho trí tuệ phát sáng, và hành ngày làm việc thiện  lành lợi ích cho mọi người. Đó là những điều căn bản không một người tu  nào có thể thiếu được.  
Tóm  lại, tu theo đạo Phật chủ yếu là tránh ba nghiệp ác của thân miệng ý và  tạo ba nghiệp lành. Vì nghiệp có sức mạnh đưa người tới chỗ khổ hay  vui. Nếu tu mà nghiệp thức còn thì dù có chứng thần thông siêu việt đến  đâu cũng không giải cứu được khi nghiệp báo đến. Vì thế đạo Phật không  trọng thần thông, mà sợ gây nghiệp ác, khuyên tạo nghiệp lành. Thế nên  mọi hiện tượng huyền bí lạ lùng không phải là cái đích cho người tu Phật  hướng đến. Người tu Phật chân chính là tự trau sửa mình để trở thành  người tốt, nhân từ đức hạnh, tâm bình an, trí tuệ sáng suốt, hằng ngày  làm lợi ích cho mọi người, đó là điều cơ bản, không hiếu kỳ, không lười  biếng, không ỷ vào thần quyền ma lực, tu như thế mới đúng với tinh thần  của đạo Phật. 
Trích "Tu là chuyển nghiệp" của HT.Thích Thanh Từ
No comments:
Post a Comment