
Chuyện diệt cọp và hổ mây khổng lồ của đạo sĩ Ba Lưới đã đi vào sách vở, vào những cẩm nang giới thiệu về vùng Thất Sơn do cơ quan Nhà nước phát hành.
1. Thế võ bí truyền “Bình phong lạc nhạn” diệt hổ mây
Thất Sơn, hay còn gọi theo tên nôm là Bảy Núi. Vùng đất giáp biên giới Campuchia thuộc tỉnh An Giang bỗng đột khởi 7 quả núi thiêng. Trong số đó, núi Cấm cao nhất, tới 700m so với mặt nước biển, và cũng được coi là quả núi linh thiêng nhất vùng.
Từ ngày xảy ra vụ lở khối đá ngàn tấn, đè chết mấy người, con đường lên núi bị chặn lại. Du khách muốn lên đỉnh Thất Sơn buộc phải cuốc bộ, hoặc thuê xe ôm đi len lỏi trong rừng. Đoạn nào không có đường thì cuốc bộ.

Núi Cấm
Lần mò cả buổi ở chân núi, rồi tôi cũng thuê được người dẫn đường. Xe máy chạy đến đầu ấp Thiên Tuế (An Hảo, Tịnh Biên) thì dừng lại, vì không còn đường.
Tiếp tục cuốc bộ chừng hơn tiếng đồng hồ, len lỏi trong rừng, đến hết con đường mòn, thì ngôi nhà gỗ hiện ra, chênh vênh vách núi, ẩn hiện trong lùm cây.
Người dân trong vùng gọi vách núi này là Long Hổ Hội. Đạo sĩ Ba Lưới sống cùng gia đình trong thung lũng này, tách biệt hoàn toàn với ấp Thiên Tuế.
Khi chúng tôi đến, đạo sĩ Ba Lưới đang thong thả hái thuốc trong vườn. Quanh ngôi nhà gỗ của ông là những vườn thuốc, do ông gieo trồng, chăm sóc.

Đạo sĩ Ba Lưới và ngôi nhà giữa rừng.
Đạo sĩ Ba Lưới mang hình dạng đúng như tưởng tượng của tôi. Mái tóc dài trắng như cước được buộc tó. Đầu quấn khăn. Bộ râu trắng toát dài chấm ngực.
Thật khó tin, khi đã tròn 100 tuổi, mà ông vẫn trồng thuốc, hái thuốc, bốc thuốc cứu người. Trong vùng, hễ ai bị rắn độc cắn, đều tìm đến nhờ vả ông. Độc rắn loại gì ông cũng hóa giải được.
Nhấp mấy chèn trà, mất dăm phút hồi tưởng, ông mới bắt đầu câu chuyện đời mình. Đó là một tuổi thơ đầy khốn khó, rồi những cơ duyên kỳ lạ ở vùng núi rừng rú, thâm u này.
Đạo sĩ Ba Lưới tên thật là Nguyễn Văn Y. Quê ông ở Chợ Mới (An Giang). Gia đình đông con, nên đói kém và thất học. Năm 19 tuổi, nghe người dân đồn trên núi Cấm có nhiều đạo sĩ có công năng kỳ dị, nên ông quyết định rời gia đình tầm sư học đạo.

Dù đã 100 tuổi, song đạo sĩ Ba Lưới vẫn khỏe mạnh, nhanh nhẹn
Sinh ra ở vùng sông nước, ngày ngày kiếm cá đổi cơm, nên đi đâu ông cũng dắt manh lưới bên mình. Có mảnh lưới đánh cá thì không sợ chết đường chết chợ. Vậy nên, hồi vác lưới lên Núi Cấm, mấy đạo sĩ thấy ngộ, nên gọi ông là Ba Lưới. Cũng từ đó, chẳng ai nhớ đến cái tên Nguyễn Văn Y của ông nữa.
Những năm 1930 của thế kỷ trước, vùng Thất Sơn, trong đó núi Thiên Cấm Sơn là nơi có nhiều đạo sĩ ẩn danh tu luyện. Họ có thể là những cao nhân muốn lẩn trốn thế sự, cũng có thể là những chí sĩ cách mạng tạm thời ẩn thân trong rừng chờ thời cơ.
Hàng ngày, các đạo sĩ trồng trọt, hái thuốc, đêm xuống luyện võ nghệ. Ngày đó, vùng Thất Sơn rừng rú hoang rậm, cọp beo đi thành đàn, rắn độc, đặc biệt là rắn khổng lồ bò lổm ngổm trong rừng, do đó, ai muốn sống trong rừng, phải có võ nghệ cao cường. Không có sức khỏe phi thường, võ nghệ tinh thông cùng tài bốc thuốc thì không thể sống được ở vùng rừng thiêng nước độc này.

Rắn hổ mây khổng lồ bằng cây cảnh ở chân núi Cấm.
Là người có sức khỏe, trí thông minh, lại chăm chỉ học hỏi, nên chàng trai Ba Lưới được nhiều đạo sĩ dạy dỗ, đào tạo. Có đạo sĩ dạy ông cách luyện khí công, đạo sĩ dạy thuốc, đạo sĩ dạy võ. Người thầy dạy ông ít nhất, nhưng để lại nhiều hoài niệm nhất trong ông là đạo sĩ Trường Sơn.
Trong lần hái thuốc, đi sâu vào rừng già, ông gặp một túp lều cỏ. Trong lều có một đạo sĩ tóc dài phủ vai, râu buông đến ngực. Biết đây là cao nhân ẩn tích, nên chàng trai Ba Lưới đã bái làm thầy.
Vị đạo sĩ này bảo: “Phép tu của ta rất đơn giản, chỉ là một chữ Đạo. Nếu ngươi theo ta, thì chỉ có thể học được chữ Đạo mà thôi”.
Biết vị đạo sĩ này là kỳ tài, nên chàng trai Ba Lưới bái sư, rồi ở lại lều cỏ. Hàng ngày, Ba Lưới theo thầy đi hái thuốc. Hái cây thuốc nào, ông lại chỉ cho Ba Lưới biết công dụng.
Ở với đạo sĩ Trường Sơn chừng hơn một năm, thì Ba Lưới học được cả trăm bài thuốc, chữa đủ các loại bệnh. Trong đó, bài thuốc trị rắn cắn là đặc biệt nhất. Vậy nên, trong đời đạo sĩ Ba Lưới, ông đã cứu hàng ngàn người thoát khỏi án tử vì bị rắn độc cắn.
Ngôi chùa nào ở vùng Thất Sơn cũng có tượng rắn khổng lồ ở cổng.
Mãi đến sau này, đạo sĩ Ba Lưới mới hiểu chữ Đạo cao quý làm sao. Sử dụng các bài thuốc để cứu người cũng là một cách tu đạo.
Một đêm, đạo sĩ Trường Sơn nói với học trò Ba Lưới: “Ta có cả trăm thế võ nên dù có dạy con cả đời cũng không hết được. Tuy nhiên, ta sẽ chỉ truyền cho con một thế võ mà thôi. Ta mong con học đến nơi đến chốn”.
Thế võ mà vị đạo sĩ bí ẩn ấy truyền cho Ba Lưới có tên Bình phong lạc nhạn. Ông chỉ dạy một đêm là xong. Ông dặn Ba Lưới rằng: “Thầy cho con thanh danh tính được. Con có thành tài hay không phụ thuộc vào tính kiên trì và đạo đức của con”. Nói rồi, đạo sĩ nhún chân, nhảy vọt một cái. Chớp mắt, ông đã ở bên kia thung lũng và biến mất trong đêm trăng sáng vằng vặc.
Cho đến tận bây giờ, đạo sĩ Ba Lưới vẫn không nắm được chút gì về người thầy của mình. Đạo sĩ Trường Sơn đến từ đâu, tên thật là gì, tu luyện theo phái nào, ông cũng không biết. Người thầy ấy như thể vị tiên từ trên trời xuống.

Đạo sĩ Ba Lưới bảo: “Hôm thầy biến mất tui buồn lắm, ngồi khóc cả buổi. Thầy đi mà chỉ để lại cho một thế võ thì làm sao thành tài được. Nhưng nghe lời thầy, tui cũng chịu khó rèn luyện. Càng rèn, tui càng thấy thế võ biến hóa kỳ ảo khôn lường. Đến bây giờ, tui vẫn chưa hiểu hết được sự biến ảo của thế võ này”.
Bản chất của thế võ là nhảy lên không trung và tung ra liên hoàn cước. Mức tối thiểu là phải ra được 3 cước cực mạnh trong mỗi cú nhảy lên không trung.
Để rèn đôi chân, hàng ngày Ba Lưới gánh 150 kg đá lên tận đỉnh núi Cấm, rồi lại gánh xuống. Gánh nặng như thế, song ông chạy băng băng. Lúc bỏ gánh đá xuống, kết hợp với kỹ thuật dẫn khí, ông thấy cơ thể vô cùng nhẹ nhõm, như thể bay lên được.
Để rèn thêm võ nghệ, Ba Lưới còn bái nhiều đạo sĩ nữa làm thầy. Ông theo học cả môn phái của đạo sĩ Đoàn Minh Huyên, với các thế võ thần, hay còn gọi là siêu hình, rồi cả môn võ rồng khiến dao đâm vào người chẳng ăn thua gì.
Tuy nhiên, có một điều ông Ba Lưới nhận ra, đó là, càng tìm hiểu những môn võ khác, ông càng thấy được quyền năng thượng thừa của thế võ Bình phong lạc nhạn mà đạo sĩ Trường Sơn truyền dạy cho ông.
Đạo sĩ Ba Lưới chỉ tay sang bên kia vách núi bảo: “Khe núi này rộng chừng 20 mét. Ngày trước, tui tập trung tinh thần, khi thăng hoa, tui nhảy một cái sang bên kia”.
Lợn rừng ở vùng Bảy Núi xưa kia nhiều vô kể. Những con lợn độc chiếc, nặng đến 200 kg là nỗi ám ảnh của người dân. Không ít người lên nương bị những con lợn với cặp răng nanh nhọn hoắt này húc chết. Nhiều người thành tật hiện vẫn còn sống quanh núi Cấm vì lợn rừng húc.
Đạo sĩ Ba Lưới đi rừng nhiều, nên có vô số lần bị lợn rừng độc chiếc khổng lồ tấn công. Tuy nhiên, với thế Bình phong lạc nhạn, ông dễ dàng thoát khỏi sự tấn công của nó. Ông chỉ tránh đòn và để cho nó sống sót.
Cũng với thế Bình phong lạc nhạn, đạo sĩ Ba Lưới đã hạ thủ một con cọp 200 kg, khi nó đã ăn thịt một số người dân trong vùng. Ông nhảy vọt lên không trung, vừa tránh đòn con cọp, vừa ra tung liên hoàn cước trúng chỗ hiểm, khiến con cọp chết thẳng cẳng.
Tuy nhiên, tên tuổi đạo sĩ Ba Lưới chỉ nổi lên như cồn khắp vùng Thất Sơn và đi vào huyền thoại, khi ông sử dụng thế võ đặc biệt của mình để hạ thủ 2 con rắn hổ mây khổng lồ khi nó cố tình tấn công ông.
2 Cuộc chiến huyền thoại với hổ mây khổng lồ
Nhắc đến loài rắn hổ mây khổng lồ, không ít người cho rằng đó là chuyện tào lao của cư dân vùng đất bác Ba Phi. Tôi cũng tin như vậy.
Tuy nhiên, gặp gỡ hàng trăm người, ở nhiều tỉnh thành khác nhau, tôi đều được nghe những câu chuyện rất thật, rất giống nhau. Họ mô tả hình dạng, màu sắc, cách di chuyển, tính nết của loài rắn này trùng khớp một cách khó tin.
Một đạo sĩ kỳ lạ, đáng tôn kính, đã sống 100 năm trên cõi đời, trên quả núi Cấm linh thiêng nhất vùng Cửu Long như đạo sĩ Ba Lưới, thì không có lý do gì để bịa tạc những câu chuyện mua vui. Cả đời ông sống ẩn cư trong rừng, thì ông còn màng gì thế sự, còn ham hố gì việc kể chuyện tào lao cho nổi tiếng.

Đường lên núi Cấm.
Tôi hỏi đạo sĩ Ba Lưới: “Thưa ông. Con từ Hà Nội vào đây, mang theo một câu hỏi mà bao năm nay con nghi ngờ mãi, đó là có rắn hổ mây khổng lồ hay không?”.
Đạo sĩ Ba Lưới tỏ ra bực dọc vì câu hỏi đó của tôi. Ông đã định không tiếp tôi nữa. “Tui lấy danh dự của người sắp xuống lỗ để khẳng định với anh rằng, rắn hổ mây khổng lồ là loài có thiệt, chứ không phải chuyện tào lao. Già như tui có giống kẻ bịa chuyện hay không?” – đạo sĩ Ba Lưới nói như vậy.
Theo đạo sĩ Ba Lưới, vùng Thất Sơn huyền bí không chỉ có rắn hổ mây khổng lồ, mà còn có những loài khác, cũng to khủng khiếp, ấy là con phướn, con rết.
Con phướn to lớn như hổ mây, nặng vài trăm ký. Nó chỉ khác rắn hổ mây ở cái thân hình màu đen, và đầu dẹp như cá trê. Con phướn phóng trên ngọn cây như giông bão. Khi nó săn mồi, cả cánh rừng rung bần bật, cỏ cây táp đi. Nhưng nó là loài rất nhát, nên ít người thấy nó ngoài các đạo sĩ ẩn tu lâu năm trong rừng.
Xưa kia, đạo sĩ Ba Lưới thi thoảng gặp con phướn, nhưng 50 năm trở lại đây thì nó biến đâu mất. Loài rết khổng lồ cũng to bằng bắp chân, có thể xơi tái gà, vịt. Các đạo sĩ trên núi cũng thường bắt rết xiên vào cây nướng trên than hồng làm món ăn. Thịt nó trắng và ngọt như thịt gà. Nhưng loài rết khổng lồ cũng biến mất từ lâu rồi.
Để thông tin trung thực về cuộc chiến với rắn hổ mây khổng lồ ở núi Cấm, tôi xin chép nguyên văn đoạn trao đổi với đạo sĩ Ba Lưới:
- PV: Thưa đạo sĩ, ông hãy kể cho độc giả, đặc biệt là những nhà nghiên cứu động vật được biết về rắn hổ mây.
- Đạo sĩ Ba Lưới: Rắn hổ mây khổng lồ nhiều người nhìn thấy, thậm chí bắt được chứ không riêng gì tui. Tui thì gặp chúng thường xuyên, thậm chí ở cạnh chúng suốt, nên tui rất rõ về nó. Nó có thân màu vàng, hơi mốc. Màu vàng nhạt hơn trăn.
Loài hổ mây khác với trăn là khi săn mồi hoặc tránh thân cây đổ, mỏm đá, nó cất đầu rất cao, đến tận ngọn cây. Nó chạy rất nhanh khi ở trên cây, phóng từ cây nọ sang cây kia tạo ra tiếng ồn như gió lốc. Nó sống ở sâu trong rừng và lẩn trốn con người, nên ít người gặp được nó. Con hổ mây cỡ lớn hết vòng tay ôm, to bằng cột nhà, bằng cây thốt nốt. Nó dài 20 mét. Thậm chí dài hơn.


Tuy nhiên, giới đạo sĩ chúng tui không giết rắn, không xâm phạm nơi ở của chúng, nên chúng cũng không làm hại con người. Rắn hổ mây có thể nuốt trâu, bò, sơn dương, lợn rừng. Nó bò ra mép sông nuốt cá sấu, nhưng tuyệt nhiên không dám tấn công các đạo sĩ.
Nhưng rồi, không hiểu sao, một con hổ mây ở cạnh nơi tôi tu luyện lại đổi tính nết, đòi ăn thịt tui.
Bình thường, các buổi trưa, tui vẫn thấy nó quấn trên hai ngọn cây, thả thân võng xuống đong đưa. Nhưng rồi đột nhiên, nó đi đâu mất, mấy tháng không thấy bóng dáng.
Tháng 4 cỏ cháy, rừng cháy, chiến tranh bom đạn, khí trời nóng ran. Có lẽ do trời nóng, nên con rắn thay đổi tính nết, từ hiền lành sang hung dữ. Cũng có thể do không kiếm được mồi, đói ăn, nên nó đòi ăn thịt tui.
Đầu giờ sáng, tui vác đòn gánh vào rừng hái thuốc. Chiếc đòn gánh ấy làm từ loại gỗ rất cứng, tròn, to bằng bắp chân, một đầu nhọn, một đầu tù. Tui thường buộc cây thuốc thành bó, xiên đòn vào tâm bó gánh về. Tui cũng dùng chiếc đòn gánh tới 200 ký đá để luyện công.
Đi nửa dốc, thì con hổ mây đó bò ra chặn đường. Bình thường thấy người hổ mây chạy mất dạng, đằng này nó lại bò ra giữa đường chặn tui. Chờ một lát, không thấy nó bỏ đi, mà ngóc đầu lên nhìn tui. Tui bực mình nhặt hòn đá ném về phía nó, nhưng nó không bỏ đi mà rùng rùng chuyển động, cất đầu cao đến 5 mét.
Cái đầu nó bạnh ra to đúng bằng cái nia, chiều ngang cỡ một mét. Đầu nó đu đưa, lưỡi thè ra, mắt dòm thẳng xuống tui. Nhìn thái độ của nó, tui biết là nó sẽ tìm cách nuốt chửng tui. Tui vung đòn gánh thủ thế tìm sơ hở của nó.
Sống ở rừng lâu năm, quá hiểu loài hổ mây, nên tui giữ tinh thần bình tĩnh. Nếu mất tinh thần là chỉ có làm mồi cho nó. Loài hổ mây phóng trên ngọn cây như giông bão thì con người làm sao chạy thoát được nó. Loài khỉ đu ào ào trên ngọn cây nó còn tóm được, nói gì con người chạy dưới đất.
Tui thủ thế đoán định hướng tấn công của nó, còn nó nhòm tui tìm sơ hở. Loài hổ mây tuy mạnh nhưng rất dốt. Nó nhòm về bên nào, thì sẽ tấn công bên đó. Loài cọp thì đập đuôi bên này, nhưng lại chụp về bên kia.
Tuy nhiên, gặp gỡ hàng trăm người, ở nhiều tỉnh thành khác nhau, tôi đều được nghe những câu chuyện rất thật, rất giống nhau. Họ mô tả hình dạng, màu sắc, cách di chuyển, tính nết của loài rắn này trùng khớp một cách khó tin.
Một đạo sĩ kỳ lạ, đáng tôn kính, đã sống 100 năm trên cõi đời, trên quả núi Cấm linh thiêng nhất vùng Cửu Long như đạo sĩ Ba Lưới, thì không có lý do gì để bịa tạc những câu chuyện mua vui. Cả đời ông sống ẩn cư trong rừng, thì ông còn màng gì thế sự, còn ham hố gì việc kể chuyện tào lao cho nổi tiếng.
Đường lên núi Cấm.
Tôi hỏi đạo sĩ Ba Lưới: “Thưa ông. Con từ Hà Nội vào đây, mang theo một câu hỏi mà bao năm nay con nghi ngờ mãi, đó là có rắn hổ mây khổng lồ hay không?”.
Đạo sĩ Ba Lưới tỏ ra bực dọc vì câu hỏi đó của tôi. Ông đã định không tiếp tôi nữa. “Tui lấy danh dự của người sắp xuống lỗ để khẳng định với anh rằng, rắn hổ mây khổng lồ là loài có thiệt, chứ không phải chuyện tào lao. Già như tui có giống kẻ bịa chuyện hay không?” – đạo sĩ Ba Lưới nói như vậy.
Theo đạo sĩ Ba Lưới, vùng Thất Sơn huyền bí không chỉ có rắn hổ mây khổng lồ, mà còn có những loài khác, cũng to khủng khiếp, ấy là con phướn, con rết.
Con phướn to lớn như hổ mây, nặng vài trăm ký. Nó chỉ khác rắn hổ mây ở cái thân hình màu đen, và đầu dẹp như cá trê. Con phướn phóng trên ngọn cây như giông bão. Khi nó săn mồi, cả cánh rừng rung bần bật, cỏ cây táp đi. Nhưng nó là loài rất nhát, nên ít người thấy nó ngoài các đạo sĩ ẩn tu lâu năm trong rừng.
Xưa kia, đạo sĩ Ba Lưới thi thoảng gặp con phướn, nhưng 50 năm trở lại đây thì nó biến đâu mất. Loài rết khổng lồ cũng to bằng bắp chân, có thể xơi tái gà, vịt. Các đạo sĩ trên núi cũng thường bắt rết xiên vào cây nướng trên than hồng làm món ăn. Thịt nó trắng và ngọt như thịt gà. Nhưng loài rết khổng lồ cũng biến mất từ lâu rồi.
Để thông tin trung thực về cuộc chiến với rắn hổ mây khổng lồ ở núi Cấm, tôi xin chép nguyên văn đoạn trao đổi với đạo sĩ Ba Lưới:
- PV: Thưa đạo sĩ, ông hãy kể cho độc giả, đặc biệt là những nhà nghiên cứu động vật được biết về rắn hổ mây.
- Đạo sĩ Ba Lưới: Rắn hổ mây khổng lồ nhiều người nhìn thấy, thậm chí bắt được chứ không riêng gì tui. Tui thì gặp chúng thường xuyên, thậm chí ở cạnh chúng suốt, nên tui rất rõ về nó. Nó có thân màu vàng, hơi mốc. Màu vàng nhạt hơn trăn.
Loài hổ mây khác với trăn là khi săn mồi hoặc tránh thân cây đổ, mỏm đá, nó cất đầu rất cao, đến tận ngọn cây. Nó chạy rất nhanh khi ở trên cây, phóng từ cây nọ sang cây kia tạo ra tiếng ồn như gió lốc. Nó sống ở sâu trong rừng và lẩn trốn con người, nên ít người gặp được nó. Con hổ mây cỡ lớn hết vòng tay ôm, to bằng cột nhà, bằng cây thốt nốt. Nó dài 20 mét. Thậm chí dài hơn.

Đạo sĩ Ba Lưới ẩn tu đã 80 năm trên núi Cấm.
- PV: Nghe nói ông dùng võ giết rắn?
- Đạo sĩ Ba Lưới: Tui luôn nhớ lời dạy của thầy nên cả đời tu tâm dưỡng tánh, cứu người. Học võ cũng là học đạo, chứ không phải săn muông thú, diệt muông thú. Nếu tui giết muông thú, liệu tui có sống được trăm tuổi ở rừng già này không? Tui hại muông thú, tui sẽ bị thú ăn thịt lâu rồi. Việc tui giết rắn cũng là bất đắc dĩ, vì nó nổi điên đòi ăn thịt tui.
- PV: Ông kể chuyện giết hổ mây đi ạ?
- Đạo sĩ Ba Lưới: Tui giết con hổ mây đầu tiên là năm 1944, khi đó tui chừng 30 tuổi, đã tu luyện trên núi được 10 năm.
Lúc đó rừng rú hoang rậm lắm. Cả vùng núi, và đồng ruộng mênh mông không có bóng người, toàn cây cối, đầm nước, thú dữ. Cả vùng Bảy Núi chỉ có các đạo sĩ và học trò sinh sống, chứ không có dân cư. Chỉ những người tinh thông võ nghệ, biết thuốc trị rắn mới dám vào rừng ở. Trong rừng, rắn độc nhiều vô số, rắn khổng lồ, trăn khổng lồ vắt lủng liểng trên đọt cây.
- PV: Nghe nói ông dùng võ giết rắn?
- Đạo sĩ Ba Lưới: Tui luôn nhớ lời dạy của thầy nên cả đời tu tâm dưỡng tánh, cứu người. Học võ cũng là học đạo, chứ không phải săn muông thú, diệt muông thú. Nếu tui giết muông thú, liệu tui có sống được trăm tuổi ở rừng già này không? Tui hại muông thú, tui sẽ bị thú ăn thịt lâu rồi. Việc tui giết rắn cũng là bất đắc dĩ, vì nó nổi điên đòi ăn thịt tui.
- PV: Ông kể chuyện giết hổ mây đi ạ?
- Đạo sĩ Ba Lưới: Tui giết con hổ mây đầu tiên là năm 1944, khi đó tui chừng 30 tuổi, đã tu luyện trên núi được 10 năm.
Lúc đó rừng rú hoang rậm lắm. Cả vùng núi, và đồng ruộng mênh mông không có bóng người, toàn cây cối, đầm nước, thú dữ. Cả vùng Bảy Núi chỉ có các đạo sĩ và học trò sinh sống, chứ không có dân cư. Chỉ những người tinh thông võ nghệ, biết thuốc trị rắn mới dám vào rừng ở. Trong rừng, rắn độc nhiều vô số, rắn khổng lồ, trăn khổng lồ vắt lủng liểng trên đọt cây.
Tuy nhiên, giới đạo sĩ chúng tui không giết rắn, không xâm phạm nơi ở của chúng, nên chúng cũng không làm hại con người. Rắn hổ mây có thể nuốt trâu, bò, sơn dương, lợn rừng. Nó bò ra mép sông nuốt cá sấu, nhưng tuyệt nhiên không dám tấn công các đạo sĩ.
Nhưng rồi, không hiểu sao, một con hổ mây ở cạnh nơi tôi tu luyện lại đổi tính nết, đòi ăn thịt tui.
Bình thường, các buổi trưa, tui vẫn thấy nó quấn trên hai ngọn cây, thả thân võng xuống đong đưa. Nhưng rồi đột nhiên, nó đi đâu mất, mấy tháng không thấy bóng dáng.
Tháng 4 cỏ cháy, rừng cháy, chiến tranh bom đạn, khí trời nóng ran. Có lẽ do trời nóng, nên con rắn thay đổi tính nết, từ hiền lành sang hung dữ. Cũng có thể do không kiếm được mồi, đói ăn, nên nó đòi ăn thịt tui.
Đầu giờ sáng, tui vác đòn gánh vào rừng hái thuốc. Chiếc đòn gánh ấy làm từ loại gỗ rất cứng, tròn, to bằng bắp chân, một đầu nhọn, một đầu tù. Tui thường buộc cây thuốc thành bó, xiên đòn vào tâm bó gánh về. Tui cũng dùng chiếc đòn gánh tới 200 ký đá để luyện công.
Đi nửa dốc, thì con hổ mây đó bò ra chặn đường. Bình thường thấy người hổ mây chạy mất dạng, đằng này nó lại bò ra giữa đường chặn tui. Chờ một lát, không thấy nó bỏ đi, mà ngóc đầu lên nhìn tui. Tui bực mình nhặt hòn đá ném về phía nó, nhưng nó không bỏ đi mà rùng rùng chuyển động, cất đầu cao đến 5 mét.
Cái đầu nó bạnh ra to đúng bằng cái nia, chiều ngang cỡ một mét. Đầu nó đu đưa, lưỡi thè ra, mắt dòm thẳng xuống tui. Nhìn thái độ của nó, tui biết là nó sẽ tìm cách nuốt chửng tui. Tui vung đòn gánh thủ thế tìm sơ hở của nó.
Sống ở rừng lâu năm, quá hiểu loài hổ mây, nên tui giữ tinh thần bình tĩnh. Nếu mất tinh thần là chỉ có làm mồi cho nó. Loài hổ mây phóng trên ngọn cây như giông bão thì con người làm sao chạy thoát được nó. Loài khỉ đu ào ào trên ngọn cây nó còn tóm được, nói gì con người chạy dưới đất.
Tui thủ thế đoán định hướng tấn công của nó, còn nó nhòm tui tìm sơ hở. Loài hổ mây tuy mạnh nhưng rất dốt. Nó nhòm về bên nào, thì sẽ tấn công bên đó. Loài cọp thì đập đuôi bên này, nhưng lại chụp về bên kia.
3. Loài thú bí ẩn
Có một loài thú, dù nửa thực nửa hư, song rất nổi tiếng ở vùng Thất Sơn (Tịnh Biên, An Giang), đó là con dinh rắn.
Đạo sĩ Ba Lưới, người sống 80 năm trên núi Cấm, hiện đã 100 tuổi bảo rằng, Thất Sơn nổi tiếng vì có nhiều rắn độc. Từ loài bé bằng chiếc đũa, đến loài hổ mây đều có khả năng giết người.
Những loài rắn nổi tiếng độc ở Thất Sơn là loài chàm quạp, quạp voi, quạp dây, hổ sơn, hổ chuối, hổ đất, hổ hèo, mai gầm, hổ mây, hổ chúa. Những con rắn này cướp mạng cả voi, chứ chẳng nói gì người.
Xưa kia, các đạo sĩ vào rừng Thất Sơn tu luyện, thường mang theo một chiếc sừng của loài dinh rắn. Có chiếc sừng này trong người, cùng với một số bài thuốc bí truyền mà họ nắm giữ, thì mọi độc dược của rắn sẽ được hóa giải.
Núi Cấm
Ông Ba Lưới vào căn nhà nhỏ giữa rừng, nơi vách núi Long Hổ Hội, thắp hương trên bàn thờ, rồi mở hòm gỗ lấy cho tôi xem một chiếc sừng màu đen tuyền, cong cong rất lạ, như chiếc lưỡi câu.
Chiếc sừng này chỉ nhỏ bằng ngón tay cái và dài chưa đầy gang tay. Ông chỉ cho tôi nhìn một lát, rồi lại cất đi ngay.
Với ông, đó là báu vật, là vật thiêng. Chiếc sừng cũng có linh hồn, như thực thể sống. Nó đã cứu mạng cả ngàn người trong suốt cuộc đời hành đạo, trượng nghĩa của đạo sĩ Ba Lưới.
Theo ông Ba Lưới, năm 19 tuổi, lên núi Thất Sơn tầm sư học đạo, ông đã hai lần bị rắn cắn suýt chết trong cùng năm nó. Nếu không học được bài thuốc trị rắn cắn, thì không thể tồn tại được trên đỉnh Thiên Cấm Sơn, nên ông đã dày công tìm thầy học thuốc rồi mới học võ.

Ông Ba Lưới khẳng định dinh rắn là loài có thật ở Thất Sơn
Người thầy đầu tiên tên Trường Sơn đã truyền cho ông bài trị rắn độc bằng cây, lá, nhưng người thầy thứ hai, là đạo sĩ Bùi Văn Thân, đã truyền cho ông bảo vật, đó là chiếc sừng dinh rắn.
Lúc chuẩn bị lâm chung, đạo sĩ Bùi Văn Thân nắm tay đệ tử Ba Lưới dặn dò: “Ta truyền cho con vật quý của tổ tiên để lại. Con phải ra sức tu tâm dưỡng tánh để cứu người. Cầm bảo vật trong tay mà con không cứu được người là có tội với tiền nhân”.
Mặc dù đạo sĩ Ba Lưới hiểu biết rất rõ về các loài vật kỳ dị ở Thiên Cấm Sơn, song loài dinh rắn vẫn là bí ẩn với ông.
Ông bảo, chỉ có duy nhất một lần ông nhìn thấy loài vật kỳ dị, lạ lùng, tưởng như chỉ có trong thần thoại này. Nó là loài thuộc họ bò sát, nhưng ngắn hơn rắn, dài hơn con rít (con rít như mô tả ở kỳ trước, giống con rết, nhưng to bằng cái phích, dài gần 1m).
Đầu nó tù, chứ không dài như đầu trăn và bành như đầu rắn hổ mang. Nó không lớn lắm, chỉ nặng trên dưới 10kg. Trên mũi con vật lạ lùng này có một chiếc sừng cong ra phía sau.
Loài dị thú này sống ẩn dật trong các hang động, trên núi cao, nơi không có con người đặt chân đến. Đôi khi nó ngủ trên cây bằng cách móc sừng của nó lên cành.
Món ăn của dinh rắn là các loài rắn độc. Các loài rắn độc gặp dinh rắn thì sợ hãi, thân cứng như khúc củi, không di chuyển được nữa, nó chỉ việc bò đến xơi tái.
Các đạo sĩ ở vùng Thất Sơn bắt được dinh rắn thì cắt lấy sừng, rồi thả nó ra. Chỉ một thời gian sau, chiếc sừng lại nhú lên, mọc lại như cũ.
Sừng dinh rắn không những có khả năng hút các loại nọc độc của rắn khi áp vào vết thương, mà mang sừng dinh rắn trong người, các loài rắn độc đều chạy mất.
Chuyện này cũng liêu trai, đồn thổi y như chiếc nanh hổ có khả năng khắc chế loài chó.
Chuyện về chiếc sừng dinh và loài dị thú có tên dinh rắn, có lẽ là chuyện bí ẩn nhất vùng Thất Sơn vốn lắm huyền bí.

Sừng con dinh?
Nhiều nhà sinh học, nghiên cứu y dược đã tìm hiểu về chiếc sừng dinh rắn hiện thuộc sở hữu của một số thầy thuốc vùng Thất Sơn, song vẫn chưa tìm được lời giải mã.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đó là sừng hươu, sừng sơn dương, được người xưa hơ lửa uốn cong cho đẹp và không có tác dụng hút nọc độc của rắn.
Thế nhưng, có một sự thật, là người dân vùng Thất Sơn, khi bị rắn độc cắn, thường không đi bệnh viện, mà tìm đến các đạo sĩ, các thầy thuốc có chiếc sừng dinh để nhờ chữa trị.
Ngoài đạo sĩ Ba Lưới nổi danh thiên hạ với cách chữa rắn độc bằng sừng dinh, cây lá, truyền khí công, người dân vùng Thất Sơn đều biết đến ông Tư Tùng (tức Bùi Thanh Tùng) ở ấp Thới Thượng, (Thới Sơn, Tịnh Biên, An Giang).

Nhiều người cho rằng sừng dinh là sừng dê!
Nhà ông Tư Tùng cách núi Cấm không xa. Ông Tư Tùng dù không phải thầy thuốc, nhưng với chiếc sừng dinh rắn, ông cũng đã cứu cả ngàn mạng người bị rắn độc cắn.
Hễ ai trong vùng bị rắn độc cắn, họ khiêng người trúng độc đến nhà ông Tùng. Ông sẽ rạch một vết nhỏ chỗ rắn cắn cho máu chảy, rồi áp sừng dinh vào.
Sừng dinh như chiếc nam châm hút chặt vào vết thương. Khi rút hết nọc độc, chiếc sừng chuyển màu đen bóng rồi sẽ tự rời ra. Ngâm chiếc sừng trong rượu, nọc độc sẽ thôi ra đen sì.
Sau khi dùng sừng dinh rút độc, nạn nhân sẽ tỉnh táo, khỏe mạnh. Tiếp đó, ông Tùng sẽ điều trị bằng lá cây, để nạn nhân bình phục nhanh chóng.
Đấy là lời kể của ông Tùng, còn sự thực về tính năng hút độc của sừng dinh đến đâu chưa ai rõ. Cũng có thể nó có một chút tác dụng, còn để cứu mạng nạn nhân bị rắn độc cắn, cần đến các bài thuốc khác nữa.
Trong tác phẩm Cây huê xà (loài cây dây leo giống con rắn, mọc trên núi Cấm, dùng để chữa rắn độc), nhà văn Sơn Nam cũng nhắc đến sừng dinh: “Ăn bánh ngải rồi uống nước chanh. Xong xuôi, nằm xuống hút một điếu á phiện với cái dọc tẩu làm bằng sừng con dinh…”.

Đường lên Cấm Sơn
Bài thuốc trị rắn độc gồm 5 vị mà nhà văn nhắc đến gồm: Ngải mọi, nước chanh, á phiện, sừng dinh, huê xà. Tiếc rằng, nhà văn Sơn Nam đã đi xa, nên không ai hỏi được thêm thông tin chiếc sừng dinh từ ông. Nhưng rõ ràng, chiếc sừng dinh trị rắn độc đã có từ lâu lắm rồi ở vùng Thất Sơn huyền bí.
Câu chuyện của nhà văn Sơn Nam cũng cho thấy, sừng dinh chỉ là một vị trong bài thuốc chữa nọc độc của rắn mà thôi.
Không chỉ sừng dinh có công dụng hút nọc rắn từ cơ thể người, mà nhiều dược liệu khác cũng có tác dụng tương đương. Chẳng hạn như hạt đậu Lào cũng có khả năng hút độc rắn rất tốt.
Giới săn rắn thường thủ hạt đậu Lào trong người. Nếu bị rắn cắn, họ chích cho máu chảy, rồi áp hạt đậu Lào bổ miếng vào vết thương. Hạt đậu sẽ dính chặt vào cơ thể như nam châm. Khi hút hết độc, nó tự rơi ra. Thả hạt đậu đó vào chén rượu, nó sẽ thải độc ra. Hạt đậu đó lại dùng được cho những lần tiếp theo.
Tientrinet
Theo VTC
Ông Ba Lưới vào căn nhà nhỏ giữa rừng, nơi vách núi Long Hổ Hội, thắp hương trên bàn thờ, rồi mở hòm gỗ lấy cho tôi xem một chiếc sừng màu đen tuyền, cong cong rất lạ, như chiếc lưỡi câu.
Chiếc sừng này chỉ nhỏ bằng ngón tay cái và dài chưa đầy gang tay. Ông chỉ cho tôi nhìn một lát, rồi lại cất đi ngay.
Với ông, đó là báu vật, là vật thiêng. Chiếc sừng cũng có linh hồn, như thực thể sống. Nó đã cứu mạng cả ngàn người trong suốt cuộc đời hành đạo, trượng nghĩa của đạo sĩ Ba Lưới.
Theo ông Ba Lưới, năm 19 tuổi, lên núi Thất Sơn tầm sư học đạo, ông đã hai lần bị rắn cắn suýt chết trong cùng năm nó. Nếu không học được bài thuốc trị rắn cắn, thì không thể tồn tại được trên đỉnh Thiên Cấm Sơn, nên ông đã dày công tìm thầy học thuốc rồi mới học võ.

Ông Ba Lưới khẳng định dinh rắn là loài có thật ở Thất Sơn
Người thầy đầu tiên tên Trường Sơn đã truyền cho ông bài trị rắn độc bằng cây, lá, nhưng người thầy thứ hai, là đạo sĩ Bùi Văn Thân, đã truyền cho ông bảo vật, đó là chiếc sừng dinh rắn.
Lúc chuẩn bị lâm chung, đạo sĩ Bùi Văn Thân nắm tay đệ tử Ba Lưới dặn dò: “Ta truyền cho con vật quý của tổ tiên để lại. Con phải ra sức tu tâm dưỡng tánh để cứu người. Cầm bảo vật trong tay mà con không cứu được người là có tội với tiền nhân”.
Mặc dù đạo sĩ Ba Lưới hiểu biết rất rõ về các loài vật kỳ dị ở Thiên Cấm Sơn, song loài dinh rắn vẫn là bí ẩn với ông.
Ông bảo, chỉ có duy nhất một lần ông nhìn thấy loài vật kỳ dị, lạ lùng, tưởng như chỉ có trong thần thoại này. Nó là loài thuộc họ bò sát, nhưng ngắn hơn rắn, dài hơn con rít (con rít như mô tả ở kỳ trước, giống con rết, nhưng to bằng cái phích, dài gần 1m).
Đầu nó tù, chứ không dài như đầu trăn và bành như đầu rắn hổ mang. Nó không lớn lắm, chỉ nặng trên dưới 10kg. Trên mũi con vật lạ lùng này có một chiếc sừng cong ra phía sau.
Loài dị thú này sống ẩn dật trong các hang động, trên núi cao, nơi không có con người đặt chân đến. Đôi khi nó ngủ trên cây bằng cách móc sừng của nó lên cành.
Món ăn của dinh rắn là các loài rắn độc. Các loài rắn độc gặp dinh rắn thì sợ hãi, thân cứng như khúc củi, không di chuyển được nữa, nó chỉ việc bò đến xơi tái.
Các đạo sĩ ở vùng Thất Sơn bắt được dinh rắn thì cắt lấy sừng, rồi thả nó ra. Chỉ một thời gian sau, chiếc sừng lại nhú lên, mọc lại như cũ.
Sừng dinh rắn không những có khả năng hút các loại nọc độc của rắn khi áp vào vết thương, mà mang sừng dinh rắn trong người, các loài rắn độc đều chạy mất.
Chuyện này cũng liêu trai, đồn thổi y như chiếc nanh hổ có khả năng khắc chế loài chó.
Chuyện về chiếc sừng dinh và loài dị thú có tên dinh rắn, có lẽ là chuyện bí ẩn nhất vùng Thất Sơn vốn lắm huyền bí.

Sừng con dinh?
Nhiều nhà sinh học, nghiên cứu y dược đã tìm hiểu về chiếc sừng dinh rắn hiện thuộc sở hữu của một số thầy thuốc vùng Thất Sơn, song vẫn chưa tìm được lời giải mã.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đó là sừng hươu, sừng sơn dương, được người xưa hơ lửa uốn cong cho đẹp và không có tác dụng hút nọc độc của rắn.
Thế nhưng, có một sự thật, là người dân vùng Thất Sơn, khi bị rắn độc cắn, thường không đi bệnh viện, mà tìm đến các đạo sĩ, các thầy thuốc có chiếc sừng dinh để nhờ chữa trị.
Ngoài đạo sĩ Ba Lưới nổi danh thiên hạ với cách chữa rắn độc bằng sừng dinh, cây lá, truyền khí công, người dân vùng Thất Sơn đều biết đến ông Tư Tùng (tức Bùi Thanh Tùng) ở ấp Thới Thượng, (Thới Sơn, Tịnh Biên, An Giang).
Nhiều người cho rằng sừng dinh là sừng dê!
Nhà ông Tư Tùng cách núi Cấm không xa. Ông Tư Tùng dù không phải thầy thuốc, nhưng với chiếc sừng dinh rắn, ông cũng đã cứu cả ngàn mạng người bị rắn độc cắn.
Hễ ai trong vùng bị rắn độc cắn, họ khiêng người trúng độc đến nhà ông Tùng. Ông sẽ rạch một vết nhỏ chỗ rắn cắn cho máu chảy, rồi áp sừng dinh vào.
Sừng dinh như chiếc nam châm hút chặt vào vết thương. Khi rút hết nọc độc, chiếc sừng chuyển màu đen bóng rồi sẽ tự rời ra. Ngâm chiếc sừng trong rượu, nọc độc sẽ thôi ra đen sì.
Sau khi dùng sừng dinh rút độc, nạn nhân sẽ tỉnh táo, khỏe mạnh. Tiếp đó, ông Tùng sẽ điều trị bằng lá cây, để nạn nhân bình phục nhanh chóng.
Đấy là lời kể của ông Tùng, còn sự thực về tính năng hút độc của sừng dinh đến đâu chưa ai rõ. Cũng có thể nó có một chút tác dụng, còn để cứu mạng nạn nhân bị rắn độc cắn, cần đến các bài thuốc khác nữa.
Trong tác phẩm Cây huê xà (loài cây dây leo giống con rắn, mọc trên núi Cấm, dùng để chữa rắn độc), nhà văn Sơn Nam cũng nhắc đến sừng dinh: “Ăn bánh ngải rồi uống nước chanh. Xong xuôi, nằm xuống hút một điếu á phiện với cái dọc tẩu làm bằng sừng con dinh…”.

Đường lên Cấm Sơn
Bài thuốc trị rắn độc gồm 5 vị mà nhà văn nhắc đến gồm: Ngải mọi, nước chanh, á phiện, sừng dinh, huê xà. Tiếc rằng, nhà văn Sơn Nam đã đi xa, nên không ai hỏi được thêm thông tin chiếc sừng dinh từ ông. Nhưng rõ ràng, chiếc sừng dinh trị rắn độc đã có từ lâu lắm rồi ở vùng Thất Sơn huyền bí.
Câu chuyện của nhà văn Sơn Nam cũng cho thấy, sừng dinh chỉ là một vị trong bài thuốc chữa nọc độc của rắn mà thôi.
Không chỉ sừng dinh có công dụng hút nọc rắn từ cơ thể người, mà nhiều dược liệu khác cũng có tác dụng tương đương. Chẳng hạn như hạt đậu Lào cũng có khả năng hút độc rắn rất tốt.
Giới săn rắn thường thủ hạt đậu Lào trong người. Nếu bị rắn cắn, họ chích cho máu chảy, rồi áp hạt đậu Lào bổ miếng vào vết thương. Hạt đậu sẽ dính chặt vào cơ thể như nam châm. Khi hút hết độc, nó tự rơi ra. Thả hạt đậu đó vào chén rượu, nó sẽ thải độc ra. Hạt đậu đó lại dùng được cho những lần tiếp theo.
Tientrinet
Theo VTC
No comments:
Post a Comment