Trước đây, giới nghiên cứu đưa ra nhiều  giả thuyết về cội nguồn phát tích của dân tộc Việt. Các nhà nghiên cứu  lịch sử thường căn cứ vào những sách sử duy  nhất còn lại của Hán tộc  nên nhất loạt cho rằng Việt tộc phát tích từ miền Bắc rồi di cư xuống  phương Nam. Chính vì vậy, một số người còn cho rằng dân tộc Việt là một  nhánh của Hán tộc (Tàu) hoặc cho rằng chúng ta phát tích từ người Việt ở  Triết Giang và Phúc Kiến trong cộng đồng Bách Việt di cư xuống Việt Nam  thời  Xuân Thu Chiến quốc như hai học giả Pháp là L’Aurousseau và  Madrolle. 
Các nhà nghiên cứu thuộc trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp ở Hà Nội thì cho rằng người Việt phát tích từ Tây Tạng, thuộc chủng Indonesian ngành Mongoloid phương Nam và nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc cho rằng Mã Lai là cội nguồn dân tộc. Tất cả những luận điểm trên đều không có tính thuyết phục nên chúng ta phải tìm về nguồn cội phát tích của tộc Việt từ truyền thuyết đến hiện thực lịch sử được kiểm chứng bởi văn hoá khảo cổ, dân tộc và ngôn ngữ học, kết quả khảo tiền sử và cấu trúc di truyền DNA.
I. TRUYỀN THUYẾT KHỞI NGUYÊN DÂN TỘC
III. VĂN HOÁ KHẢO CỔ VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC
Với địa danh Thủy Phủ (Suifu) là Cảng  Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên TQ bây giờ (Phần tô đậm là lãnh thổ Triều Thương,   chung quanh là địa bàn cư trú của Bách  Việt) Năm 1991, tạp chí  National Geographic nổi tiếng của Hoa Kỳ đã cho ấn hành bản đồ Trung  Quốc trong đó ghi rõ sự xâm lấn bành trướng của họ. Bản đồ “History of  China” đã cung cấp một chứng liệu lịch sử rõ ràng là lãnh thổ Trung Quốc  thời Chu rất nhỏ trên lưu vực phía Bắc sông Hoàng Hà. Trong khi chính  National Geographic lại ghi rõ tộc Việt định cư ở lưu vực sông Dương Tử  đã đinh cư định canh từ hơn 5 ngàn năm TDL và là cư dân trồng lúa nước  đầu tiên trên thế giới “5000 B.C.Farmers along the Chang Jiang (Dương  Tử) are the first to grow rice”.   Tên vùngThủy Phủ (Suifu)ghi rõ trong  Bản đồ Bán đảo Đông Dương và Nam Trung Quốc của New International ATLAS  of the World Geographical Publishing Company 1949. Theo truyền thuyết  thì Bố Lạc dẫn 50 con về Thủy Phủ chính là Cảng Thành Đô, Phủ Trùng  Khánh tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc bây giờ. Thời đó, tất cả vùng đất này còn  ngập nước mênh mông như biển ở phương Nam nên sách sử gọi là vùng Nam  Hải.
Phạm Trần Anh
Các nhà nghiên cứu thuộc trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp ở Hà Nội thì cho rằng người Việt phát tích từ Tây Tạng, thuộc chủng Indonesian ngành Mongoloid phương Nam và nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc cho rằng Mã Lai là cội nguồn dân tộc. Tất cả những luận điểm trên đều không có tính thuyết phục nên chúng ta phải tìm về nguồn cội phát tích của tộc Việt từ truyền thuyết đến hiện thực lịch sử được kiểm chứng bởi văn hoá khảo cổ, dân tộc và ngôn ngữ học, kết quả khảo tiền sử và cấu trúc di truyền DNA.
I. TRUYỀN THUYẾT KHỞI NGUYÊN DÂN TỘC
Mỗi dân tộc đều có những truyền kỳ lịch  sử được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử thi của  dân tộc đó. Nữ sĩ Blaga Dimitrova cũng như nhiều học giả ngoại quốc  khác đã hết sức ngạc nhiên xen lẫn thán phục khi nghiên cứu về lịch sử  Việt Nam, một dân tộc mà huyền thoại và hiện thực đan quyện hoà lẫn với  nhau đến độ khó có thể phân biệt đâu là huyền thoại đâu là hiện thực  nữa. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về cội nguồn huyết thống Việt tuy  đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét nhân  văn của truyền  thống nhân đạo Việt Nam.  Truyền thuyết thoạt nghe có vẻ  hoang đường huyền hoặc thế nhưng vấn đề là chúng ta phải đặt mình vào  thuở ban sơ cách đây mấy ngàn năm mới thấy rõ Tổ tiên ta đã sống ra sao  và suy nghĩ thế nào ở thời cổ đại? Từ đó mới có thể hiểu được những gì  mà Tổ tiên ta đã gửi gấm cho chúng ta qua bức thông điệp lịch sử đó. Làm  sao có chuyện trứng nở ra người? Chi Âu Việt của người Việt cổ chọn vật  linh biểu trưng là chim nên mẹ Âu đẻ ra trăm trứng là chuyện bình  thường. Nếu mẹ Âu (Chim) đẻ ra người mới là chuyện lạ, nên đây chỉ là  biểu trưng của chi Âu Việt mà thôi.   Mặt khác, chim Phượng Hoàng huyền  thoại trên thực tế là con Công của người Việt tung cánh bay theo hướng  mặt trời, vừa diễn tả ý niệm người Việt thiên cư dần về hướng Đông xuống  miền bể và chim bay lên trời dẫn tới hình tượng “Tiên” của mẹ Âu.  Mỗi  dân tộc đều có những truyền thuyết độc đáo mang sắc thái đặc thù biểu  trưng riêng của dân tộc đó. Vì thế ngay cả những dân tộc mà ngày nay  được xem là văn minh cũng đều có một con vật biểu trưng cho dòng giống  như Ấn Độ là voi, Tàu là con cọp, Pháp là con gà trống Gaulois, Anh là  con sư tử, Mỹ là con chim Ưng (đại bàng) nên Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ lấy  chim đại bàng và Pháp lấy con gà làm quốc huy cho cả nước. Theo triết  gia Kim Định thì cơ cấu luận thì Sử ký là “sử hàng ngang” ghi chép các  biến cố, các sự kiện cụ thể với những con người cụ thể theo năm tháng,  còn Huyền sử được gọi là “Sử hàng dọc” mang tính tâm linh biểu thị bằng  những hình tượng nguyên sơ. Thật vậy, cái biểu tượng uyên nguyên đó có  thật như một lý tưởng nhưng chưa hiện thực được. Đó là những nguyên lý  được kết tinh và tiềm ẩn trong đời sống tâm linh của một dân tộc như  trong huyền sử Rồng Tiên thì Âu Cơ chỉ là hình tượng nguyên sơ. Mẹ Âu Cơ  là chi tộc thờ chim của Việt tộc nên việc mẹ đẻ ra một cái bọc trăm   trứng là chuyện bình thường cũng như cái bọc không chỉ nói về cái bọc mà  nó biểu tượng cho ý niệm công thể, ý nghĩa của 2 chữ “đồng bào” cùng  chung một bào thai của mẹ Âu Cơ. Tầm nguyên ngữ nghĩa của chữ Tiên gồm  chữ sơn và chữ nhân, hàm nghĩa người ở trên núi mà thôi. Cũng thế trăm  con không nhất thiết phải là một trăm mà hàm ý số nhiều từ đó chúng ta  mới có ý niệm “Trăm họ” (Bách tính) và rộng hơn nữa là “Bá tánh”.   Ngày  nay không ai phủ nhận được giá trị của huyền  thoại và truyền thuyết  được  coi như lịch sử dân gian mà đôi khi nó có giá trị trung thực hơn  cái gọi là chính sử của các chế độ độc tài xưa và nay. Beaudelaire một  thi sĩ nổi tiếng đã  nhìn nhận sức mạnh của truyền thuyết huyền thoại vì  đó là “Sử cô đọng của các dân tộc”. Đại văn hào Pháp Victor Hugo khi  viết “Truyện kỳ các thời đại” ông đã tìm về nguồn cội, khai thác các  truyền thuyết thần thoại xa xưa vì theo ông, đó là “Lịch sử được lắng  nghe ở ngưỡng cửa của truyền thuyết. Truyền kỳ có phần nào hư cấu nhưng  tuyệt đối không có ngụy tạo”. Thật vậy, truyền thuyết tự thân nó không  phải là lịch sử biên niên nhưng truyền thuyết là có thật, nó phản ảnh  những ý nghĩa có thật của một thời lịch sử ban sơ mà người xưa ký thác  vào đó dưới lớp vỏ hư cấu huyền hoặc để truyền lưu gửi gấm cho những thế  hệ sau. Một triết gia nói: “Tất cả nền  minh triết cũng như trí khôn  loài người đều ẩn  tàng  trong các huyền thoại, truyền kỳ lịch sử dân  gian”. Vấn đề là phải làm sao hiểu được những lý tưởng uyên nguyên,  những tâm linh sâu thẳm hàm tàng ẩn chứa qua những hình tượng nguyên sơ  trong đó. Nói theo Jung, một triết gia thời đại thì: “Truyền thuyết  huyền thoại hàm chứa những ý nghĩa lịch sử trung thực nhất, vì nhân vật  thần thoại là sản phẩm đúc kết biết bao suy tư của một thời đại tạo dựng  độc sáng nhưng nó phải chờ thế hệ sau diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên  lý giải”.              Jung, một triết gia thời đại đã nói  “Huyền thoại  là đạo sống của một dân tộc” mà theo Wallace Cliff thì “ Nếu dân tộc  nào để mất đi huyền thoại là đánh mất mạch nối vào nguồn cội quá khứ của  tổ tiên và cũng sẽ mất luôn căn bản cho việc xây dựng tiền đồ của dân  tộc đó”. Thật vậy Laurens va de Post đã xem huyền thoại là di sản thiêng  liêng nhất vì nó diễn tả tinh thần dân tộc ở mức độ cao nhất. Micia  Eliado cũng cho rằng “Huyền thoại là gia sản quí báu nhất vì tính chất  thiêng liêng điển hình và mang lại ý nghĩa sống cho cả một dân tộc”.  Lịch sử đã chứng minh lời của Karl Jung là “Dân tộc nào quên đi huyền  thoại thì dân tộc đó dù là những dân tộc văn minh nhất sớm muộn cũng sẽ  tiêu vong”. Trong lịch sử loài người, nhiều cộng đồng người đã không tồn  tại được với thời gian vì không có truyền thuyết khởi nguyên của dân  tộc. Huyền thoại là di sản thiêng liêng nhất, quí báu nhất mà tiền nhân  đã để lại cho hậu thế. Huyền thoại là mạch sống nối cội nguồn quá khứ  với thế hệ hiện tại và mai sau, là gia sản cao quí vô giá ghi nhận những  cảm nghiệm nội tâm của người xưa đã thực chứng suốt dòng vận động của  lịch sử. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên đã thấm sâu trong lòng mỗi  người chúng ta để trở thành đạo sống của dân tộc Việt.   Với phương pháp  nghiên cứu huyền thoại, chúng ta nghiên cứu huyền sử, tìm về nguồn cội  dòng giống qua những gửi gấm của người xưa là một việc làm hết sức đúng  đắn và cần thiết. Vấn đề đặt ra là với một thái độ nghiêm túc, một  phương pháp khoa học, nhưng không có quyền áp đặt những suy nghĩ của  nhân loại thế kỷ 21 lên những tư tưởng của người xưa mà chúng ta phải  đặt mình hoàn cảnh lịch sử thời đó để có thể hiểu được cái gọi là “lịch  sử sống động của dân gian”. Một mặt, phải gạt bỏ những yếu tố thần  thoại, loại ra những chi tiết hư cấu. Mặt khác, đặt mình vào hoàn cảnh  xã hội đời sống tâm linh của người xưa, mới thấy được cái tinh tuý cốt  lõi tiềm tàng trong truyền thuyết để giải mã bức “Thông Điệp” hàng ngàn  năm lịch sử của tiền nhân.
II. NGUỒN GỘC VIỆT TỘC TRONG THƯ TỊCH CỔ TRUNG QUỐC
Chúng ta tự hào là con Rồng cháu Tiên  của Bố Lạc Mẹ Âu với thiên tình sử đẹp như một áng sử thi mở đầu thời kỳ  dựng nước của dòng giống Việt. Truyện họ Hồng Bàng về khởi nguyên dân  tộc, lần đầu tiên được Hồ Tông Thốc chép trong tác phẩm “Việt Nam thế  chí” vào thế kỷ XIV đời Trần nhưng sách đã bị quân Minh tịch thu tiêu  huỷ nên không còn nữa. Đầu thế kỷ XIV, Trần Thế Pháp và Lý Tế Xuyên đời  Trần đã chép lại những truyền thuyết dân gian vào bộ sách “LĨNH NAM  TRÍCH QUÁI” và “VIỆT ĐIỆN U LINH” để truyền lưu nguồn gốc giống dòng  Việt cho đời sau. Học giả Lê Quí Đôn trong “Kiến văn Tiểu lục” viết năm  1777 đã nhận định: “Hồi đầu niên hiệu Khai Hựu (1329-1341) nhà Trần, Lý  Tế Xuyên phụng mệnh chép Việt Điện U Linh tập, ghi đền miếu thờ các vị  thần, có trình bày hạo khí linh tích 8 vị Đế vương Lịch đại và 12 vị  nhân thần. Sách này lời văn trang nghiêm, sự việc xác thực, cũng tỏ ra  tài nhà sử học lành nghề.Trong sách có dẫn Giao Châu ký của Tăng Cổn, Sử  ký của Đỗ Thiện và truyện Báo cực. Những sách này đều không còn thấy  lưu truyền ..!”. Mãi đến đời Lê, sử gia Ngô Sĩ Liên mới chính thức đưa  thời đại Hùng Vương vào bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ. Sử gia Ngô Sĩ Liên  viết “Nước ĐẠI VIỆT ta ở về phía Nam Ngũ Lĩnh, thế là Trời đã chia bờ  cõi Nam Bắc hẳn hòi. Thủy tổ của ta là con cháu Thần Nông. Trời đã sinh  ra vị chân chúa vì thế mới cùng Bắc triều đều làm chúa Tể một phương…”      Trong khi đó, một số sách sử cổ Trung Hoa còn ghi chép về cộng đồng  Bách Việt một thời cư trú ở lãnh thổ TQ bây giờ. Sách Cương Mục Tiền  Biên của Kim Lý Tường chép “Năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu, Việt  Thường Thị sang chầu, có dâng con rùa thần”. Sử Ký của Tư Mã Thiên chép:  “Năm thứ 6 đời Thành Vương nhà Chu, phiá Nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường  Thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim Trĩ trắng”. Sách Hoài Nam Tử của  Lưu An trong phần cương vực triều Thương chép rõ hơn về cương giới của  nước ta như sau: “ Tả Đông Hải, hữu Lưu Sa, tiền Giao Chỉ, hậu Hàm đô”.  Nghĩa là mặt trước (phía Nam) Hoài Nam Tử chép lãnh tổ của triều thương  phiá Nam giáp Giao Chỉ mà Giao Chỉ theo sách Dư Địa Chí của Cổ Dã Vương  thì “ Giao Chỉ đời Chu là Lạc Việt”. Lãnh thổ triều Thương lúc đó chỉ  vỏn vẹn khoảng hơn 2 tỉnh ngày nay gồm phía Nam tỉnh Hà Bắc, phía Đông  tỉnh Hà Nam, phía Bắc tỉnh Sơn Tây và phía Tây tỉnh Sơn Đông, như vậy  Giao Chỉ (Lạc Việt) lúc đó còn giáp với tỉnh Sơn Tây TQ bây giờ...    Sách “Hậu Hán Thư” và sách “Địa lý Chí” chép rõ ràng là: Từ Giao Chỉ đến  Cối Kê trên bảy tám nghìn dặm, người Bách Việt ở xen nhau, đều có chủng  tính. Tên của các nhóm trong Bách Việt được sách “Lộ Sử” tức sử của  người Lạc Việt của La Tất đời Tống liệt kê như sau: “Việt Thường, Lạc  Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải Dương, Mục Thâm,  Phù Xác, Cầm Nhân, Thương Ngô, Man Dương, Dương Việt, Quế Quốc, Tây Âu,  Quyên Tử, Sản Lý, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê Từ, Bộc Cầu, Bắc Đái, Khu  Ngô.. gọi là Bách Việt. Trong những nhóm Bách Việt ấy thì Dương Việt ở  miền hạ lưu sông Dương Tử, nhóm Thương Ngô ở miền Nam tỉnh Quảng Tây.  Nhóm Sản Lý tức Xa Lý ở miền Tây Nam tỉnh Vân Nam. Như vậy, theo sử sách  Trung Quốc xưa gọi là Bách Việt là những nhóm người Việt ở rải rác khắp  miền Hoa Nam phía Tây gồm cả đất Vân Nam, phía Nam gồm cả miền Bắc và  Bắc Trung Việt. Sử sách thường gọi chung là miền Giang Nam và miền Lĩnh  Nam”.Việt tộc không chỉ cư trú ở vùng lưu vực giữa Hoàng Hà Dương Tử mà  còn định cư ở mạn Bắc sông Hoàng Hà mà cổ sử Trung Quốc gọi là Bách Bộc.  Bách Bộc không phải tên chủng tộc mà chỉ là tên gọi người Việt cổ dòng  Thần Nông phương Bắc ở vùng sông Bộc. Sông Bộc bắt nguồn từ cao nguyên  chảy qua Hà Bắc vùng giữa Hà Nam và  Sơn Đông rồi chảy vào Hoàng Hà.  Theo “Lệ sử dân” thì Bộc tức Bách Bộc chi tộc ở vùng sông Bộc. Mặt khác,  sách “Nhĩ Nhã” của môn đệ Khổng Tử ghi: “Rợ Đông Di (Lạc bộ Trĩ) định  cư từ lưu vực sông Bộc ra tới biển Đông và lên tới cực Bắc Trung Hoa  cũng có tục nhuộm răng xâm mình”. Sách Nhĩ Nhã viết chữ Lạc của Lạc bộ  Trĩ giống hệt chữ Lạc trong họ của Lạc Long Quân.Sử Ký Tư Mã Thiên và  Xuân Thu Tả Truyện viết rõ là vị vua có hiệu là Nhược Ngao là vị vua  Hùng thứ 14 tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị vào năm 789  trước Tây Lịch. Điều này chứng tỏ thời đại Hùng Vương là có thật trong  lịch sử. Sử gia Trung quốc Chu Cốc Thành trong tác phẩm “Trung Quốc   Thông sử” thì Viêm  tộc đã có mặt khắp nước Trung Hoa cổ đại trước khi  Hán tộc tràn vào. Viêm tộc là tộc người do Viêm đế Thần Nông còn gọi là  Đế Thần làm chủ toàn cõi Trung nguyên đầu tiên. Lúc đó, Hán tộc du mục  còn săn bắt, chăn nuôi ở vùng Tân Cương, Thanh Hải. Sau này, họ tiến  xuống dọc theo sông Hoàng Hà đánh chiếm đất đai của Viêm tộc. Sử gia  Mộng văn Thông trong tác phẩm “Cổ sử Nhân Vi” cho rằng “Viêm Tộc theo  triền sông Dương Tử tràn xuống 7 tỉnh lưu vực Dương Tử Giang là Tứ  Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Giang Tô, An Huy, Triết Giang. Sau đó,  họ tiến sang bình nguyên Hoa Bắc, cư trú ở ở lưu vực sông Hoàng Hà gồm 6  tỉnh Hà Nam, Hà Bắc,Sơn Tây,Sơn Đông, Thiểm Tây, Cam Túc.. Theo thời  gian, họ vượt qua 5 dãy núi của rặng Ngũ Lĩnh tiến về 5 tỉnh vùng lưu  vực sông Việt Giang là Vân Nam, Quí Châu, Quảng Tây, Quảng Đông và Phúc  Kiến”.   Sách “Hán quan nghi” của Ưng Thiệu đời Hán cũng phải thừa nhận  một thực tế là: “Khi cổ nhân mới mở nước ở phương Bắc đã giao tiếp ngay  với phương Nam để xây dựng nền tảng cho con cháu”. Đặc biệt, gần đây  nhóm Tân học gọi là “Nghi cổ phái” do Quách Mạt Nhược thành lập năm 1920  chủ xướng đã bác bỏ thời Tam Hoàng, Ngũ đế. Sự thật lịch sử này đã được  hội nghị Quốc Tế về nền văn minh Trung Hoa gồm các nhà Trung Hoa học tổ  chức ở Đại học Berkerley Hoa Kỳ năm 1978 xác định rằng Di Việt làm chủ  Trung Nguyên trước tiên, sau đó bị Thương Chu đánh đuổi chạy xuống  phương Nam. Lịch sử Trung Quốc chỉ mới bắt đầu từ triều Thương  (1766-1154 TDL) nhưng các triều Thương Chu lại chịu ảnh hưởng sâu đậm  của văn hoá Di Việt.  Sử gia hàng đầu của Trung Quốc hiện nay là Trương  QuangTrực (Chang Kwang Chih), đã phải thừa nhận một sự thực lịch sử là  tuy Trung Quốc là một quốc gia lớn với một nền văn hoá lớn nhưng nó đã  phải thâu nhập tinh hoa của nhiều nền văn hoá hoá hợp lại: “Những nền  văn hoá địa phương thời tiền sử, sau khi thống nhất đã trở thành một bộ  phận của văn hoá Trung Quốc. Nguồn gốc thực sự của Hoa Hán chỉ là phần  nhỏ nhưng sau khi triều Tần thống nhất thì dân tộc cả nước thống nhất ấy  là dân tộc Trung Hoa”. Thực tế này đã được ông Hoàng văn Nội, một sử  gia Trung Quốc thừa nhận là quá nửa dân số Trung Quốc ngày nay là người  gốc Viêm tộc (Viêm Việt) bị Hán tộc thống trị đồng hoá thành người Hán.II. NGUỒN GỘC VIỆT TỘC TRONG THƯ TỊCH CỔ TRUNG QUỐC
III. VĂN HOÁ KHẢO CỔ VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC
Mỗi dân tộc có một lịch sử tiến hóa mang  đậm bản sắc đặc thù của dân tộc đó, gắn liền với hoàn cảnh địa lý thiên  nhiên, điều kiện khí hậu thổ nhưỡng cùng với sự phân bổ các loại động  vật và thực vật mà cộng đồng sinh sống trong khu vực đó.  Ngày nay, các  nhà nghiên cứu đều công nhận một thực thể “Văn hóa Đông Nam Á”, có một  lịch sử dân tộc học thống nhất bao gồm nhiều dân tộc cư trú trên địa bàn  này mà từ xa xưa có cùng một cội nguồn lịch sử. Các nhà khảo cổ, Nhân  chủng, Địa lý, Lịch sử, Dân tộc và ngôn ngữ học với các công trình  nghiên cứu liên ngành, bằng các phương pháp đối chiếu so sánh đã thống  nhất một nhận định chung về Đông Nam Á. Đó là một khu vực địa lý nhân  văn trải dài từ vùng chân núi Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya) xuống Nam Trung  Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Cao Miên (Cambodia), Lào, Mã Lai (Malaya) và  Nam Dương (Indonesia). Xét trên phương diện địa lý thiên nhiên, địa lý  văn hóa, địa lý chính trị, địa lý kinh tế thì tất cả tạo thành một cảnh  quan sinh thái nhân văn gọi là đại đồng văn của một khu vực bao gồm các  quốc gia Đông Nam Á kể cả vùng Nam Trung Quốc. Hệ thống sinh thái thiên  nhiên của khu vực nóng ẩm gió mùa, mưa nhiều, nhiệt độ cao, ánh sáng  nhiều nên đất đai thích hợp cho rất nhiều loại thực vật sinh trưởng và  phát triển. Đặc biệt, đó là khu vực trồng lúa nước với đặc trưng “Văn  hóa Trống đồng”.    Tất cả chứng cớ Khảo cổ, Khảo tiền sử, Dân tộc và  Ngôn ngữ học đối chiếu với nguồn thư tịch cổ cho phép chúng ta kết luận  là trên vùng đất trải dài từ lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử trở xuống  phương Nam tới tận vùng Đông Nam Á hải đảo gồm Malaysia, Indonesia,  Philippine, quần đảo Polynesie và cả Mỹ châu nữa là địa bàn sinh sống  của một chủng tộc phát tích từ Hoabinhian tức protoviets.   Ngược dòng  lịch sử về nguồn cội gốc tích Việt tộc chính là ngược dòng sông Cửu Long  để tìm về lộ trình thiên cư của người xưa còn để lại ấn tích mà các nhà  Khảo cổ học gọi là văn hoá khảo cổ. Kết hợp với kết quả của khoa Khảo  Tiền sử, Dân tộc học, Ngôn ngữ học và nhất là Di Truyền học để xác minh  tính hiện thực của truyền thuyết và của các nguồn thư tịch cổ. Mỗi một  thời đại có một nền văn hoá khảo cổ riêng biệt gồm những di chỉ và tổng  số hiện vật rải rác trong một khu vực nhất định với những nét đặc trưng  giống nhau và có cùng một trình độ phát triển kỹ thuật vì cùng một thời  dù những yếu tố thẩm mỹ đa dạng có phần nào khác biệt nhưng về đại thể,  vẫn mang tính thống nhất chung của một thực tế lịch sử.Các công trình  nghiên cứu khoa học từ Khảo cổ học, Tiền sử học đến Dân tộc học, chủng  tộc học, ngôn ngữ học và văn hóa học đều thừa nhận nền văn hóa của các  cư dân từ Nam Hoàng Hà xuống tới Đông Nam Á châu là cái nôi sinh tụ của  cư dân Nam Á chính là cộng đồng Bách Việt (Malayo-Viets). Học giả  Andréas Lommel trong tác phẩm “Tiền sử” đã ghi nhận như sau: “Tất cả  miền đất mênh mông từ Thái Bình Dương trở lên đến Hoa Nam Trung Quốc đều  có cùng m ột nền văn hóa. Đảo Bornéo ở Nam Dương (Indonesia) cũng có  cùng nghệ thuật như miền sông Hoài thuộc Giang Tô miền Nam nước Ngô thời  Xuân Thu Chiến Quốc. Đặc tính văn hóa gắn liền với môi trường sinh sống  của thực vật và động vật từ trầu cau, cây dâu đến heo, gà, công. Các  phong tục tập quán từ nhuộm răng ăn trầu, xâm mình, cà răng đến lễ hội  mừng nước, đua thuyền, vai trò quan trọng của trống đồng và cồng chiêng  trong các lễ hội dân gian. Đó là khu vực văn hóa Trống đồng của cộng  đồng Bách Việt từ Nam Trung Quốc, Đài Loan, Hải Nam tới Đông Dương gồm  Việt Miên Lào, Thái Lan xuống tới bán đảo Mallacca, Mã Lai  (Malaysia),Nam Dương (Indonesia), Phi Luât Tân (Philippine), Guinée,  quần đảo Micronesia và Pâques.    Theo G. Coedès, Giám đốc trường Viễn  Đông Bác cổ thì đặc điểm của chủng Indonesian mà chúng tôi gọi là  Malaynesian như sau: 1. Về phương diện tinh thần: có tính cộng đồng về  văn hóa đặc trưng bởi những  yếu tố về mặt tinh thần là tính nhị nguyên  luận về vũ trụ. 2. Về phương diện vật chất: Làm ruộng cấy lúa, nuôi trâu  bò, dung đồ kim khí thô sơ, giỏi bơi thuyền … 3. Về phương diện xã hội:  Phụ nữ giữ địa vị quan trọng, huyết thống mẫu hệ, tổ chức xã hội theo  nhu cầu tưới nước ruộng. 4. Về phương diện tôn giáo: Theo thuyết vạn vật  hữu linh, Thờ phụng tổ tiên, thờ  thần đất, đặt đền thờ trên những chỗ  cao, chôn người chết trong các chum vại. 5.Về phương diện thần thoại:  Đối lập vũ trụ luận giữa núi và biển, giữa loại phi   cầm và thủy tộc,  giữa người thượng du và người đồng bằng. 6. Về phương diện ngôn ngữ:  Dùng ngôn ngữ đơn âm với năng lực dồi dào về phát triển từ vựng.Ngày  nay, giới khoa học chính thức công nhận nền văn hoá Hoà Bình là một nền  văn hoá cổ đại nhất của nhân loại. Chính điều kiện thiên nhiên thổ  nhưỡng của vùng ảnh hưởng văn hoá Hoà Bình này đã hội đủ những điều kiện  để vùng Đông Nam Á trải dài từ chân núi Hi Mã Lạp Sơn và Côn Luân xuống  tới Nam Á, đã là một  trong những cái nôi sinh trưởng đầu tiên của nhân  loại. Tiến sĩ W.G Wilheim đã kết luận là: “Đông Nam Á đã bắt đầu trồng  cây, làm đồ gốm và đúc đồ đồng, sớm hơn các dân tộc Cận Đông, Ấn Độ,  Trung Hoa tới cả hàng mấy ngàn năm trong đó Việt Nam là quê hương của  nền văn hoá Hoà Bình”. Khoa Cổ nhân học nghiên cứu gần 100 sọ cổ của  những người cổ của cư dân Hòa Bình-Bắc Sơn ở Thiệu Dương và La Đôi có  những nét ở sọ và mặt rất giống người Việt hiện nay. Chiều cao xấp xỉ  1m58, đầu tròn, mặt tương đối, hai gò má khá cao, mũi dẹt vừa phải, mặt  hơi vẩu và đặc biệt có người biết nhuộm răng đen. Điều này chứng tỏ rằng  cư dân Hòa Bình Hoabinhian chính là protoviets, người tiền Việt.
IV. KẾT QUẢ KHẢO TIỀN SỬ VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC
IV. KẾT QUẢ KHẢO TIỀN SỬ VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC
Theo khoa Khảo Tiền sử thì cách đây hơn 6  ngàn năm, khi mực nước biển rút dần thì từ cao nguyên Côn Luân và Tây  Tạng, người Malaynesian tiến dần xuống Trung nguyên theo lưu vực 3 con  sông Hoàng Hà, Dương Tử và Cửu Long. Sở dĩ, khoa Khảo Tiền Sử chỉ xác  định cách đây 6 ngàn năm vì sọ người trên 6 ngàn năm sẽ bị hủy hoại nên  không đo được chỉ số sọ. Họ đã vẽ lại lộ trình di cư của cư dân  Malaynesian. Theo kết qủa được công bố thì nhánh Malaynesian từ thượng  nguồn sông Cửu Long và Dương Tử tiến xuống định cư ở vùng lòng chảo đất  đỏ ở Tứ Xuyên và lòng chảo Dạ Lang. Sách cổ “Kinh Thư” gọi vùng đất đỏ  Basalte từ châu Kinh sang tới Dạ lang, Tứ Xuyên là XÍCH QUI PHƯƠNG. Theo  truyền thuyết thì đây là nhánh Thần Nông phương Nam đi qua ngã Tứ  Xuyên, đất bồi đến đâu, Malayo-ProtoViets tức Bách Việt định cư tới đó.  Địa bàn cư trú của Bách Việt khắp Trung Nguyên lên tới hạ lưu sông Hoàng  Hà mà cổ sử TQ gọi là Rợ Đông Di tức Lạc bộ Trĩ của Việt tộc.       Nhánh Malaynesian thứ hai mà truyền thuyết gọi là dòng Thần Nông phương  Bắc cách đây 5 ngàn năm đã tiến xuống định cư ở vùng Tam giang Bắc gồm 3  con sông: Hoàng Hà, sông Vị, sông Lạc. Tên con sông Lạc này viết với bộ  Chuy (điểu) ở Thiểm Tây lập nên các triều đại Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du  Võng, Đế Hoàng mà sử Tàu viết là Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Đế  Cốc, Đế Chí. Đế Nghiêu, Đế Thuấn và Hạ Vũ lập ra nhà Hạ của Việt tộc.  “Kinh Thư” viết rằng tên núi và sông ở vùng Tam giang Bắc là QUI. Khi  vua Nghiêu gả con gái về làm dâu ở nhà họ Ngu ở bến sông Vị,  thì Kinh  thư chép là về là khuỷu sông Qui (Vu qui nhuế).  Sách cổ “Kinh Thư” gọi  vùng đất Tam giang Bắc gồm sông Vị, sông Hoàng và sông Lạc trải dài  xuống Tam giang Nam gồm 3 con sông: sông Nguyên, sông Tương và sông  Dương Tử là Xích Qui Phương. Cổ thư cũng chép vùng này là “Cửa Việt” là  “Giao Chỉ”. Theo “Khang Hy Từ Điển” thì chữ phương chỉ cái đòng đòng lúa  nên Xích Qui phương là nước Xích Qui trồng lúa nước. Chính vì vậy, tổ  tiên ta, người Việt cổ xưa đã lấy tên vùng đất (địa danh) để đặt tên  nước thời cổ đại là XÍCH QUI để truyền lưu lại cho đời sau cái di sản  thiêng liêng cao quí của Đế Tổ Thần Nông. Chữ Xích gồm 2 chữ hoả (lửa)  chồng lên nhau có nghĩa là đỏ nên Thần Nông còn gọi là Xích đế. Chữ Xích  chỉ lửa (màu đỏ) hay quẻ Ly (phương Nam) chỉ nền văn minh tinh thần nên  được gọi là Xích huyện Thần Châu. Do đó, nước Xích Qui là nước nông  nghiệp ở vùng đất đỏ phương Nam (Xích Qui Phương) của con cháu Thần Nông  mà cổ thư gọi là Cửa Việt, Giao Chỉ.   Kết qủa các công trình nghiên  cứu của hàng trăm nhà Khảo cổ và Khảo Tiền sử trên khắp Á châu  đã xác  nhận là cách đây ít nhất là 6 ngàn năm, chủ nhân của nền văn hoá “Rìu có  vai” thời đồ đá đã từ cao nguyên Tây Tạng vùng chân núi Malaya tiến  xuống Trung nguyên, từ thượng lưu sông Dương Tử qua ngã Tứ Xuyên, một số  định cư tại đây và số khác tiến dần tới giáp biển Đông. Khoa Cổ nhân  học nghiên cứu gần 100 sọ cổ của những người cổ cư trú trên đất nước  Việt Nam cho biết rằng họ đã sinh sống từ rất lâu. Cách nay khoảng 8  ngàn năm, ngay từ đầu thời đá mới trong những sọ của cư dân Hòa Bình-Bắc  Sơn ở Thiệu Dương và La Đôi có những nét ở sọ và mặt rất giống người  Việt hiện nay. Chiều cao xấp xỉ 1m58, đầu tròn, mặt tương đối, hai gò má  khá cao, mũi dẹt vừa phải, mặt hơi vẩu và đặc biệt có người biết nhuộm  răng đen. Những người Việt cổ ở Thiệu Dương La Đôi (Thanh Hóa) này so  với người Mường gốc ở Hòa Bình không có gì khác biệt. Điều này chứng tỏ  rằng cư dân Hòa Bình Hoabinhian chính là protoviets, người tiền Việt.   Năm 1962,  G. Coedès, nguyên Giám Đốc trường Viễn Đông Bác cổ đã công bố  kết quả công trình khảo tiền sử trên toàn cõi Á Đông của hàng trăm nhà  bác học Khảo cổ, Nhân chủng và Địa chất học. Những nhà bác học này đã  đào bới khắp nơi từ Nhật Bản, Hàn quốc (Triều Tiên) tới Tây vực và từ  Tây Bá Lợi Á xuống tới quần đảo Nam Á trong hàng chục năm trời đã tìm  kiếm các di chỉ khảo cổ, khai quật những lớp sọ nằm dưới của cư dân đến  trước, cư dân đến sau nằm ở trên. Sau khi đo chỉ số sọ và dung lượng sọ  để xác định ngọn nguồn gốc tích chủng tộc đó kết luận: “Tất cả các cư  dân Nam Á từ Nam Ấn, Môn, Tạng, Miến, Thái, Lào, Miên, Mã Lai, Nam  Dương, Célèbres, Việt Nam kể cả đồng bào thiểu số thượng du Bắc Việt đều  có cùng một gốc cổ Malaya gọi là Indonesian (Malaynesian hay còn gọi là  Malayo-ProtoViets) là những cư dân Nam Á có chung một chỉ số sọ trung  bình là 81,42 và dung lượng sọ có tính cách sọ tròn khác hẳn với các  chủng tộc trong vùng”.   Các nhà khoa học Khảo Tiền sử thuộc trường Viễn  Đông Bác cổ đã đo chỉ số sọ trung bình của người Việt là 82,13. Dung  lượng sọ Việt là 1341,48 và tính cách ọ Việt  Brachycephal nhĩa là Sọ  tròn trong khi chỉ số sọ của Hán tộc ở Hoa Bắc là 76,51 và thuộc loại sọ  dài có dung lượng sọ là 1440. Chỉ số sọ trung bình của dân Hoa Nam và  Hoa Đông là 81,22 và thuộc loại sọ tròn. Theo khoa Nhân chủng học   thì  cư dân Hoa Bắc và Hoa Nam là hai chủng tộc khác nhau vì sọ của 2 nhóm cư  dân này cách biệt trên 2 chỉ số có nghĩa là thuộc 2 chủng khác nhau.  Người Hoa Bắc có chỉ số sọ 76,56 gần gũi với sọ cổ người Cam Túc tức  người Hán cổ (76,70). Thực tế này chứng tỏ người Hoa Bắc là hậu duệ của  người Cam Túc tức người Mông Cổ phối chủng với người Nhục Chi ở Tây  vực*. Như vậy, sọ Hán tộc và sọ Việt cách nhau hơn 5 chỉ số (5,57) và  giữa người Hoa Nam và Hoa Bắc tuy cũng gọi là người Trung Quốc nhưng rất  khác biệt nhau vì chỉ số sọ cách nhau hơn 4 chỉ số (81-76,56=4,44),  nghĩa là người Hoa Nam và người Hoa Bắc  thuộc 2 chủng khác nhau. Trong  khi đó, sọ người Hoa Nam và người Việt cách biệt không quá 2 đơn vị  nghĩa là cùng một chủng tộc. Điều này chứng tỏ Việt tộc hoàn toàn khác  Hán tộc. Thực tế mang tính khoa học đầy thuyết phục này phản bác mọi  quan niệm sai lầm từ trước đến nay. Chúng ta cũng ghi nhận thêm là chỉ  số sọ của người Hoa Đông tức địa bàn xưa của Lạc bộ Trĩ mà cổ sử Tàu gọi  là Rợ Đông Di chính là người Việt cổ 81,70 rất gần với chỉ số sọ của  người Việt Nam bây giờ 82,13. Mặt khác, chỉ số sọ trung bình của người  Hoa Nam gốc Việt là 81 do đã lai giống với Hoa Bắc nhưng chỉ sai biệt  với chỉ số sọ Việt Nam khoảng 1,13 chỉ số. Thực ra, người Hoa Nam chính  là người Việt cổ bị thống trị đồng hóa suốt mấy nghìn năm nhưng vẫn bảo  lưu gene Việt cổ của mình.
V. KẾT QỦA PHÂN TÍCH CẤU TRÚC DI TRUYỀN DNA.
V. KẾT QỦA PHÂN TÍCH CẤU TRÚC DI TRUYỀN DNA.
Ngày nay, giới khoa học không chỉ nhìn  mọi sự vật, giải thích mọi hiện tượng một cách khoa học mà còn kiểm  chứng lại tính thuyết phục của những giả thuyết. Nhân loại đã bước vào  thiên niên kỷ thứ III với những tiến bộ vượt bực trong nhiều lĩnh vực,  đặc biệt khoa Di truyền học với ”Phân tích chủng loại” di truyền DNA.  Thế kỷ XIX, giới khoa học đồng tình với thuyết tiến hóa của Charles  Darwin, chấp nhận giả thuyết loài người đầu tiên xuất hiện ở Đông Phi.  Người ta cho rằng loài người đầu tiên xuất hiện ở Đông Phi  rồi từ Phi  Châu di chuyển sang các châu lục khác. Thế rồi hiện tượng đột biến di  truyền đã xảy ra do điều kiện thích nghi với khí hậu, thổ nhưỡng nên đã  biến đổi thành những chủng tộc Âu Á Phi có màu da, vóc dáng khác nhau.  Giới khoa học duy lý giải thích con người là do người vượn tiến hóa dần  theo thời gian để trở thành con người hiện đại. Từ định luật tiến hóa,  lý thuyết duy vật cho rằng con người chỉ là một động vật cao cấp, không  có linh hồn nên sinh ra, sống và chết đi như một động vật vô hồn, một  con vật không hơn không kém.    Thực tế đã chứng minh rằng hiện tượng  đột biến di truyền đã không lý giải được sự khác biệt quá nhiều giữa các  chủng tộc. Từ đó, nhân loại phải được sinh ra từ khởi thủy như muôn  loài muôn vật khác hiện hữu trên cõi đời này mà không phải trải qua  nhiều giai đoạn tiến hóa để rồi từ vượn mới thành người. Mặt khác, lý do  đột biến di truyền không có giá trị thuyết phục vì ngày nay, khoa học  đã xác nhận trong cơ thể các loài vượn nhỏ hay đười ươi ở Trung Phi và ở  Đông Nam Á có 24 cặp nhiễm sắc thể trong khi loài người chỉ có 23 cặp  nhiễm sắc thể mà thôi. Đặc biệt, trong những cặp nhiễm sắc thể ấy, chỉ  có 5 cặp là giống nhau còn hoàn toàn khác nhau nên cho rằng do đột biến  di truyền là không thể chấp nhận. Thêm vào đó, khoa học gần đây đã chứng  minh rằng người thượng cổ và thái cổ hoàn toàn khác với người hiện đại  về vóc dáng cơ thể cũng như trọng lượng của bộ óc nên không có liên hệ  gì với “người vượn thái cổ và viễn cổ” cả. Vả chăng, người vượn thượng  cổ và viễn cổ đã hoàn toàn tuyệt chủng và khoa Di truyền học chứng minh  “Người vượn thượng cổ và viễn cổ” tuyệt chủng vì một lý do nào đó nên  khẳng định, họ không phải là tổ tiên của nhân loại. Vì vậy, giả thuyết  tiến hóa có tính cách bao biện nên không thể đứng vững về mặt lý luận  lẫn khoa học nữa.Mặt khác, chính Charles Darwin, người chủ trương thuyết  tiến hóa đã xác định rõ là thuyết tiến hóa của ông chỉ đúng với loài  vật chứ không áp dụng cho loài người. Darwin đã không tiếp Karl Marx vì  ông cho rằng Karl Marx đã lợi dụng thuyết của ông để tuyên truyền một lý  thuyết vô đạo đức. Do đó, khi nghiên cứu lịch sử nguồn gốc dân tộc nói  riêng và nhân loại nói chung, chúng ta chỉ nghiên cứu từ thời con người  hiện đại Homo Sapiens sapiens mà thôi. Căn cứ vào những kết quả khảo cổ  đã tìm thấy xương cốt của những người hiện đại ở nhiều nơi khác nhau  trên thế giới như ở Comb Capelle nước Pháp xương cốt có niên đại C14 là  34 ngàn năm. Xương cốt tìm thấy ở Liban có niên đại C14 là 28.840 ± 380  năm, ở hang Tabon Phi Luật Tân có niên đại 30.500 ± 1.100 năm, ở hồ  Menin Úc châu có niên đại 26.300 ± 1.500 năm và hồ Ayre, hồ Mengo ở Úc  có niên đại 35.000 năm. Duy chỉ có một sọ thiếu niên 15 tuổi được xem là  cổ nhất được tìm thấy ở hang Niah phía Bắc đảo Kalimantan thuộc  Indonesia có độ tuổi C14 là 39.600 ± 1 ngàn năm. Từ thực tế này, học giả  W.Howells đã cho rằng trong khi ở Tây Âu, có những dạng người cổ còn  đang chuyển biến để trở thành người hiện đại thì ở Đông Nam Á, người  hiện đại Homo Sapiens sapiens đã thành hình. Vì vậy, nếu chấp nhận  thuyết một trung tâm thì trung tâm đầu tiên, cái nôi của nhân loại chính  là ở Đông Nam Á. Vả chăng, giới khảo cổ cũng đã tìm thấy ở làng Mả Bá  tỉnh Quảng Đông giáp Bắc Việt Nam bây giờ một xương cốt người gần với  người hiện đại nhất của người Hoà Bình tức người Tiền Việt  Hoabinhian-Protoviets. Tóm lại người Việt cổ thời Hùng Vương có mặt trên  khắp Trung Nguyên, địa bàn của quốc gia Văn Lang cổ đại xưa từ thời đá  mới. Những người Việt cổ này đa số có dạng đầu ngắn sọ tròn.  Đó chính  là sọ Malayo-Viets tức cộng đồng Bách Việt mà J. Needham gọi là “ Liên  đoàn các dân tộc Việt” hay “ Cộng đồng huynh đệ Bách Việt”. Loại hình  Malayo-viets hiện đại mà các nhà nhân chủng gọi là loại hình Nam Á là sự  hợp chủng và tiến hoá lâu dài. Đó chính là người Việt hiện đại và các  dân tộc Đông Nam Á lục địa và hải đảo.   Năm 1998, giáo sư Chu và các  đồng nghiệp ở Đại học Texas đã phân tích 15-30 mẫu “Vi vệ tinh” DNA  (microsatelltes) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân  từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á gồm 2  nhóm thổ dân châu Mỹ, một nhóm thổ dân châu Úc và một thuộc thổ dân Tân  Guinea, 4 nhóm dân da trắng Caucasian và 3 nhóm dân Phi Châu. Kết qủa  của công trình nghiên cứu bằng phương pháp phân tích thống kê có tên là  “Phân tích chủng loại” (Phylogetic Analysis) cho phép giáo sư Chu và  đồng nghiệp kết luận ghi nhận như sau: “Hai nhóm dân có sự khác biệt rõ  ràng nhất là Phi Châu và các dân khác không thuộc Phi Châu”. Giáo sư Chu  đã đi tới kết luận là: “Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có  nguồn gốc từ Đông Nam Á và Người Trung Quốc ở phía Bắc TQ có cấu trúc di  truyền khác với người Trung Quốc ở phía Nam TQ”. Năm 2001, giáo sư Lâm  Mã Lý một nhà di truyền học công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa  học “Hệ thống miễn nhiễm Human Leucocytes Antigen HLA ở nhiễm sắc thể 6  (chromosoms qua máu dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều  nước kết hợp được trong tổ hoạt động quốc tế về HLA năm 1998”, giáo sư  Lý kết luận: “Người Mân Nam Hoklo và Hakka rất gần vói người Việt, Thái  và các tộc người Mongoloid Nam Á. Người Đài Loan thuộc dân tộc Mân Việt  trong đại chủng Bách Việt hoàn toàn khác với Hán tộc”  Các nhà khoa học  của Viện Pháp Á gồm bác sĩ Trần Đại Sỹ, giáo sư Tarentino người Ý và  giáo sư sinh vật học người Pháp Varcilla Pascale đã ứng dụng hệ thống  DNA là hệ thống sinh học mới nhất cho chúng ta kết quả có tính thuyết  phục cao như sau. Các nhà khoa học đã khảo sát y phục, mồ mả, răng xương  trong các ngôi mộ cổ qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất. Sau  đó dùng hệ thống DNA kiểm những bộ xương, đồng thời kiểm máu của 35 dòng  họ tại Hoa Nam và Việt Nam rồi so sánh với những dòng họ khác tại Hoa  Bắc đã kết luận:   1. Cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Trường Giang xuống tới  miền Trung Việt Nam, Lào, Thái đều có cùng một huyết thống, một chủng  tộc.   2. Cư dân này hoàn toàn khác biệt với cư dân Hán ở Hoa Bắc.  Kết  quả của những công trình khoa học có ý nghĩa lịch sử đã xác định vùng  Đông Nam Á trải dài từ lưu vực sông Dương Tử xuống tới lưu vực sông  Hồng, sông Cửu Long mà đồng bằng châu thổ sông Hồng là trung tâm nơi  phát tích của nền văn minh Hòa Bình của cư dân Malaynesian. Do đó chúng  ta có quyền khẳng định rằng Malaynesian được xem là người Việt cổ,  Malayo-viets là Bách Việt và người Hoà Bình Hoabinhian chính là người  Tiền Việt Protoviets, tổ tiên xa xưa của đại chủng Bách Việt. Như vậy,  người Việt Nam hiện đại phát tích từ Bắc Việt Nam, thuộc đại chủng  Hoabinhian (Proto-viets)=> Malaynesian=> Malayo-Viets tức Bách  Việt có chỉ số sọ trung bình là 82,25 thuộc loại sọ tròn, có dung lượng  sọ 1341,48 hoàn toàn khác biệt với Hán tộc có chỉ số sọ là 77,82 và dung  lượng sọ là1440 và thuộc loại sọ dài.
V. ĐẠI DƯƠNG HỌC VÀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC
V. ĐẠI DƯƠNG HỌC VÀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC
Công trình nghiên cứu mới đây về Đại  dương học của Stephen Oppenheimer trong tác phẩm “Thiên đàng ở phương  Đông, lục địa bị chìm đắm ở Đông Nam Á”đã làm sáng tỏ bao khúc mắc từ  ngàn xưa về nguồn gốc của tộc Việt. Theo Học giả Stephen Oppenheimer thì  khoa nghiên cứu Đại dương ghi nhận 3 lần biển tiến gần nhất cách nay  khoảng 14 ngàn năm, 11.500 năm và 8.500 năm. Mỗi lần biển tiến, cư dân  Hòa Bình Hoabinhian phải di chuyển lên vùng đất cao theo 2 hướng Tây Bắc  và Đông Bắc. Nạn biển tiến gần đây nhất là 8.500 nãm đã nhận chìm nền  văn minh Đông Nam Á cổ đại.   Lục địa Đông Nam Á thời cổ đại bao gồm cả 2  đại lục: Đại lục SUNDALAND gồm lưu vực sông Cửu Long trải dài xuống Nam  Dương và đại lục NANHAILAND bao gồm lưu vực sông Hồng kéo dài đến đảo  Hải Nam ngày nay. Lúc đó, vịnh Bắc Việt và vịnh Thái Lan bây giờ là 2  vùng đồng bằng trũng. Khi mực nước biển dâng cao đột ngột đợt cao nhất  lên tới 150 mét gây kinh hoàng cho cả nhân loại. Hiện tượng nước biển  dâng cao này còn để lại ấn tích trong “Kinh Thánh” về nạn đại hồng thuỷ  năm xưa và truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh trong kho tàng cổ tích Việt.    Khoa Đại Dương học và khảo cổ học đã chứng minh rằng người cổ Hoà  Bình Hoabinhian do nạn biển tiến cách nay khoảng 8.500 năm đã tiến lên  vùng núi cao Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng Tây Bắc và Đông Bắc  vùng Ngũ Lĩnh. Khi mực nước biển dâng lên cao, cư dân khắp các nơi dồn  về vùng cao nên đã tập trung nhiều nền văn hóa với những phát kiến để  hình thành nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của  nhân loại. Mực nước dâng cao dần khiến cư dân Protoviets (Hoabinhian) ở  lưu vực 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long phài thiên cư theo  hướng Tây Bắc lên miền cao sơn nguyên giữa 2 dãy núi Hi Mã Lạp sơn và  Côn Luân, nhánh khác tiến theo hướng Đông Bắc lên định cư ở Phúc Kiến,  Triết Giang, Sơn Đông TQ bây giờ.  Họ mang theo đặc trưng của văn hoá  Hoà Bình lên địa bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng núi cao nhất là  Hi Mã Lạp Sơn Malaya và cổ nhất là Côn Luân (Kunlun) ở Tây Bắc và vùng  núi cao Thái Sơn ở Sơn Đông..   Thực ra, ngay từ năm 1937, nhà nghiên  cứu Heine Geldern đã tìm thấy nhiều liên hệ trực tiếp giữa các cư dân  quần đảo Marquesas và vùng Đông Nam Á khoảng 660TDL. Geldern cho rằng  người Việt vùng Nam Trung Quốc có thể đã đi bằng đường biển tới Tân Tây  Lan vào khoảng thế kỷ thứ III TDL vì người Maori có những nghệ thuật  giống hệt người Hoa Nam tức là những người Việt cổ cư trú ở miền Nam  Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Robert Heine Geldern xác nhận rất nhiều mối  liên hệ văn hóa giữa Mỹ Châu và bờ biển Á Đông trong đó chịu ảnh hưởng  rõ rệt của văn hóa Đông Sơn Việt Nam(7).   William Meacham nhận định  rằng người Việt cổ sống ở vùng sông nước và ven duyên hải nên giỏi đi  thuyền, khoa khảo cổ học cũng tìm thấy nhiều dụng cụ đánh bắt cá như dây  câu, lưới bắt cá, thuyền độc mộc. Đặc biệt, khi mực nước biển rút dần  nhưng vẫn cao hơn lúc trước, tạo thành biển cả khiến nhiều nhóm cư dân  phải sống trên các hải đảo ngăn cách với lục địa như Đài Loan với duyên  hải TQ, Hải Nam với Bắc Việt Nam, Philippines, Malaysia với Nam Dương  quần đảo, Pâques. Sự cần thiết liên lạc đã khiến họ tìm ra những phát  minh như cánh buồm, những bánh lái để đi biển khỏi bị giạt ra ngoài biển  khơi. Để xác định phương hướng, người Việt cổ đã phát minh ra hải bàn  cũng như kỹ thuật hàng hải sớm nhất thế giới mà các nhà nghiên cứu gọi  là văn minh biển của người Việt cổ Yueh.    Học giả Carl Sauer sau khi  nghiên cứu phân tich những biến chuyển về địa lý của biển Đông đã kết  luận: “Biển Đông với hai vụ gió mùa hàng năm đã tạo điều kiện thuận lợi  cho sự phát triển các ngàng nông nghiệp, ngư nghiệp và hàng hải. Chính  vì vậy, nghề đánh bắt cá cùng với kỹ thuật hàng hải đã đóng góp quan  trọng trong tiến trình văn minh Đông Nam Á thời cổ”. Mặt khác, theo học  giả Wilheim G. Soheim thì cách đây 6 ngàn năm khi nước biển rút dần chia  cắt cư dân giữa lục địa với các hải đảo, cư dân Đông Nam Á đã mạo hiểm  ra khơi để liên hệ với cư dân ở ngoài hải đảo. Gió bão và hải lưu của  biển đông đã cuốn trôi một số người đến Nhật Bản, nhóm khác thì bị giạt  sang quần đảo Phillippine, Indonesia và Melanesia. Từ đó, họ lại mang  theo đặc trưng của văn hóa Hòa Bình sang các đảo ngoài khơi Thái Bình  Dương và sang Madagascar thuộc Bắc Phi Châu. Biển Đông của Đông Nam Á  thời cổ còn là nơi phát sinh các con đường hàng hải giao tiếp với các  nơi ven biển châu Á, châu Âu, châu Phi và châu Đại Dương và cả châu Mỹ  nữa.Vùng Đông Nam Á giữ vai trò tỏa ra phân tán đi các nơi như trục của  cái bánh xe “tỏa nan hoa” đi khắp nơi, đó chính là lý do tại sao cư dân ở  các nơi trên thế giới lại có nhưng điểm giống nhau trong sinh hoạt văn  hóa xã hội.   Trước đó, nhà ngôn ngữ học Pháp Paul Rivet đã dày công  nghiên cứu và kết luận rằng “Từ vùng Đông Nam châu Á một thứ ngôn ngữ đã  được truyền bá đến Nhật Bản, Tamania, Địa Trung hải, châu Phi và châu  Mỹ”.(10) Nhà nghiên cứu Charles F Keyes cho rằng Việt Nam là nơi phát  khởi nền văn minh Hòa Bình trải rộng khắp Đông Nam Á: “Văn hóa thời Tiền  sử của toàn vùng Đông Nam Á được chia ra làm nhiều giai đoạn được đặt  tên từ những địa danh như Hòa Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn đều nằm trong lãnh  thổ Việt Nam. Thời đại đồ đồng xuất hiện khoảng từ 3.000 đến 2.500 năm  TDL ở Đông Nam Á, nghĩa là khởi sự sớm hơn Trung Hoa và Ấn Độ. Biểu  tượng chính của nền văn minh này là những trống đồng tìm thấy ở nhiều  nơi xa xăm như Sulawesi thuộc Nam Dương quần đảo Những trống đồng này  được đúc tại vùng đất nhỏ hẹp Đông Sơn của Việt Nam, từ đó trống được  phân phối đi khắp Đông Nam Á theo đường biển”. Tán đồng quan điểm trên,  nhà nghiên cứu Chester Norman nhận định rằng nền văn minh Hòa Bình thành  hình trong thời gian thềm lục địa Sundaland và Nanhailand bị ngập lụt.  Từ nhiều ngàn năm trước, cư dân Hòa Bình thời nguyên thủy chỉ biết sống  bằng săn bắn hái lượm rồi dần dần trồng trọt ruộng khô trong những vùng  thung lũng. Khi mực nước biển dâng cao khiến dân cư tụ lại vùng cao ngày  một đông, sự thiếu hụt lương thực khiến cư dân Hòa Bình nảy sinh những  phát kiến quan trọng, đó là sự ra đời các giống cây cho hạt, những loại  ngũ cốc thuần hóa thích hợp để cấy ruộng nước. Đây là chuyển biến quan  trọng mang tính đột phá của nền văn minh Hòa Bình cổ nhất của nhân loại.    Theo học giả J. Needham thì sau nạn biển tiến, Hoabinhian-Protoviets  đã mang theo 25 đặc trưng văn hoá, những phát minh quan trọng như nghề  trồng lúa nước, thiên văn, kỹ thuật hàng hải, xây cất các đô thị lên địa  bàn cư trú mới ởTrung nguyên Trung Quốc và đến các nơi khác để hình  thành những nền văn minh cổ đại trên thế giới như Trung Đông, Ấn Độ và  Trung Hoa gồm: Cách làm quần áo bằng vỏ cây, Tục xâm mình, Đốt rừng làm  rẫy, Kỹ thuật làm nương rẫy, Kỹ thuật đào mương dẫn nước vào ruộng, Kỹ  thuật thuần hoá trâu để cày bừa, Văn minh trồng lúa nước,   Đặc điểm  ngôi nhà làng để tụ họp sinh hoạt, Kỹ thuật trồng tre và sử dụng dụng cụ  bằng tre, Đặc thù về giống chó đã được thuần hoá, Kỹ thuật làm tranh  sơn mài,   Văn hoá biển và sông nước, Kỹ thuật đóng thuyền tàu dài, Tục  đua thuyền trong  các lễ hội, Huyền thoại về con Rồng, Tôn thờ loài Rồng  này, Tục thờ cúng ông bà Tiên tổ, Tục giết heo để cúng bái, Tục cầu  cúng để có con nối dõi tông đường,  Hội mùa Xuân, mùa Thu trai gái lập  gia đình, Tục linh thiêng hoá ngọn núi, Văn minh Trống đồng, Kỹ thuật  đúc sắt,  Kỹ thuật dùng nỏ bắn tên, Kỹ thuật làm khí giới, mũi tên có  tẩm thuốc độc…
VI. KẾT LUẬN
VI. KẾT LUẬN
Tóm lại, qua những công trình nghiên cứu  nói trên cho phép chúng ta kết luận như sau:  1. Niên đại của truyền  thuyết về Thần Nông vào thiên niên kỷ thứ IV TDL hoàn toàn phù hợp với  niên đại khảo cổ và kết quả đo chỉ số sọ của các nhà Khảo Tiền Sử về  chủng Indonesian (Malaynesian). Theo các nhà Tiền Sử học thì  Malayo-Viets tức Bách Việt đã định cư ở Trung Nguyên cách đây ít nhất là  6 ngàn năm. Công trình nghiên cứu sử học của học giả Shi Shi người  Trung Quốc thì người U Việt (GU-YUE) đã làm chủ biển cả cách đây hơn 7  ngàn năm. Đặc biệt, truyền thuyết kể lại rằng bố Lạc dẫn 50 con về “Thủy  Phủ”, trước đây chúng ta cho là huyền hoặc thế nhưng địa danh thủy phủ  đã được 2 học gỉa người Pháp là P. Gouron và J. Loubet tìm ra, đó chính  là cảng Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ xuyên được in trên bản đồ  Atlas 1949.  Sự thật lịch sử này đã được chính nguồn sách sử cổ Trung  Hoa xác nhận khi chép về cộng đồng Bách Việt, đã chứng minh sự thật lịch  sử của huyền thoại “Rồng Tiên” mà trước đây, chúng ta cứ nghĩ là huyền  hoặc hoang đường.  2. Mặt khác, chính thư tịch cổ Trung Quốc đã thừa  nhận một thực tế lịch sử đó là  sự thành lập của các quốc gia thời Chiến  quốc mà họ gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Đông Việt tức U-Việt (còn  gọi là Vu Việt) của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết Giang mà lên  tới miền Giang Tô tức Châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi tiếng  của chi Dương Việt mà kinh đô là Cối Kê. Lý Tế Xuyên đã viết “Việt Điện U  Linh” về nước Việt cổ xưa. Thư tịch cổ Trung Quốc xác định các quốc gia  Bách Việt như Đông Việt còn gọi là U Việt, Dương Việt, Mân Việt, Âu  Việt, Nam Việt, Điền Việt, Quì Việt, Lạc Việt trên các vùng đất mà địa  danh cũng là tên nước như Dạ Lang, Bạch Lang, Việt Lang  và Văn Lang. Sự  thật này đã được sách Xuân Thu Tả Truyện và Sử Ký của Tư Mã Thiên, là  bộ sử chính thống của TQ ghi rõ như sau : “Nghi viết Hùng Nghi hiệu  Nhược Ngao là Hùng Vương thứ 14 (789TDL)”. Các nhà khảo cổ vừa mới tìm  thấy 1 cái “Qua” là loại vũ khí độc đáo của người Việt ở phía Đông  Trường Sa tỉnh Hồ Nam trên cái qua có khắc tên vua Nhược Ngao. Tất cả sự  thật lịch sử đã được các nhà Trung Hoa học trên thế giới kể cả TQ và  Đài Loan phục hồi trong cuộc hội thảo về Văn Minh Trung Hoa được tổ chức  tại Đại Học Berkerley California năm 1978 sau mấy ngàn năm bị xoá nhòa  bởi kẻ chiến thắng và che phủ bởi lớp bụi thời gian hàng ngàn năm...  3.  Kết quả các công trình khảo cổ cho phép chúng ta kết luận là nhà nước  Văn Lang đã thành hình từ lâu. Khoa Khảo cổ cho biết rằng người Việt cổ  thời Phùng Nguyên đã chế tác nhiều vật đồ đá, đồ xương và một ít đồ đồng  như rìu, đục, giáo, lao, qua, mũi tên, mũi nhọn, mũi khoan, chì lưới,  bàn mài, bàn dập gốm. Căn cứ trên những đồ gốm, đồ đồng thuộc nền văn  hoá Hoà Bình, Đông Sơn được thám quật ở Bắc Thái và Hạ Lào đã xác định  bằng phương pháp vật lý phóng xạ C14 có niên đại khoảng 3.000 năm TDL  nghĩa là cách đây 5. 000 năm. Như vậy, niên đại thành lập nước Văn Lang  vào thiên niên kỷ thứ III TDL hoàn toàn phù hợp với mốc truyền thuyết là  năm 2879 TDL vào giai đoạn đầu thời đại đồ đồng của cộng đồng Bách Việt  với nghề nông trồng lúa nước, và nghề luyện kim đồng đã tìm thấy khắp  nơi, từ Nam Trung Hoa Thái Lan đến toàn bộ vùng Đông Nam Á lục địa và   hải đảo.  4. Kết quả công trình Khảo Tiền Sử trên toàn cõi Á Đông của  hàng trăm nhà bác  học Khảo cổ, Nhân chủng và Địa chất học. Những nhà  bác học này đã đào bới khắp nơi từ Nhật Bản, Hàn quốc (Triều Tiên) tới  Tây vực và từ Tây Bá Lợi Á xuống tới quần đảo Nam Á trong hàng chục năm  trời đã tìm kiếm các di chỉ khảo cổ, khai quật những lớp sọ nằm dưới của  cư dân đến trước, cư dân đến sau nằm ở trên. Sau khi đo chỉ số sọ và  dung lượng sọ để xác định ngọn nguồn gốc tích chủng tộc đó kết luận:  “Tất cả các cư dân Nam Á từ Nam Ấn, Môn, Tạng, Miến, Thái, Lào, Miên, Mã  Lai, Nam Dương, Célèbres, Việt Nam kể cả đồng bào thiểu số thượng du  Bắc Việt đều có cùng một gốc cổ Malaya gọi là Indonesian (Malaynesian  hay còn gọi là Malayo-ProtoViets) là những cư dân Nam Á có chung một chỉ  số sọ trung bình là 81,42 và dung lượng sọ có tính cách sọ tròn khác  hẳn với các chủng tộc trong vùng”.   Tất cả chứng cứ khoa học cho phép  chúng ta kết luận là giai đoạn đầu thời đại đồ đồng khoảng thiên niên kỷ  thứ III TDL hoàn toàn phù hợp với niên đại truyền thuyết là 2879 TDL.  Đây chính là thời điểm Việt tộc đã nung chảy xã hội nguyên thủy để thành  lập một xã hội định chế hoá của quốc gia Văn Lang. Thật vậy, kết quả  của những phân tích bằng phóng xạ carbon C14 than tro ở Đồng Dậu cho  biết cộng đồng dân cư với nền văn hoá Phùng Nguyên cách đây ít nhất là  3.500 năm. Điều này có nghĩa là họ đã có một cuộc sống ổn định đi vào tổ  chức thiết chế xã hội với hình thức nhà nước Văn Lang. Sự xác định của  niên đại khảo cổ là khoảng thiên niên kỷ thứ III TDL hoàn toàn phù hợp  với niên đại thư tịch để chứng minh sự ra đời của nhà nước Văn Lang ít  nhất là 3.000 năm TDL chứ không phải vào thế kỷ thứ VII TDL như Đại Việt  sử lược đã bị sử quan triều Thanh, Tiền Hi Tộ sửa đổi sự thật lịch sử.   5. Kết quả của khoa Phân tích Di truyền này hoàn toàn phù hợp với thư  tịch cổ Trung Hoa, Khoa Khảo cổ học, Nhân chủng học, Khảo tiền sử kể cả  truyền thuyết Rồng Tiên về thời kỳ dựng nước của Việt tộc là một sự thật  lịch sử. Luận chứng khoa học mới nhất có tính thuyết phục nhất, một lần  nữa khẳng định tộc Việt và Hán tộc là 2 tộc người khác nhau. Đồng thời  xác định địa bàn cư trú của tộc người Malaynesian tức Malayo-Viets (Bách  Việt) trải dài từ Trung nguyên  xuống tận vùng Đông Nam Á lục địa và  hải đảo. Địa bàn cư trú của Việt tộc phía Bắc tới phía Nam sông Hoàng  Hà, lưu, phía Tây giáp Tây Tạng, Đông giáp Nam Hải, Nam xuống tận Bắc  Trung Việt, chính là cương giới của nước Văn Lang xưa của tộc Việt.   Từ  truyền thuyết cũng như căn cứ vào các Thần tích và Tộc phả được phối  kiểm bởi khoa Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Chủng tộc học, Cổ nhân học, Dân  tộc và Ngôn ngữ học được kiểm chứng bởi kết quả phân tích cấu trúc phân  tử di truyền DNA của các tộc người trong vùng cho phép chúng ta xác  định tính hiện thực của Huyền Thoại Rồng Tiên với cộng đồng Bách Việt  (Malayo-ProtoViets). Địa bàn  cư  trú của Việt tộc phía Bắc tới lưu vực 2  con song Hoàng Hà và Dương Tử (Trường Giang), phía Tây giáp Tây Tạng,  Đông giáp Nam Hải, Nam xuống tận Bắc Trung Việt, chính là cương giới của  nước Văn Lang xưa của tộc Việt.   Cuối thiên niên kỷ thứ hai sang thế  kỷ XXI của thiên niên kỷ thứ Ba, với thành qủa rực rỡ của các khoa học  hiện đại như Khoa Khảo Cổ học, Khảo Tiền Sử, Di Truyền học và mới nhất  là Khoa Đại Dương học đã chứng minh rằng người cổ Hoà Bình Hoabinhian do  nạn biển tiến cách nay khoảng 8.500 năm đã tiến lên vùng núi cao Hòa  Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng Tây Bắc và Đông Bắc vùng Ngũ Lĩnh. Khi  mực nước biển dâng lên cao, cư dân khắp các nơi dồn về vùng cao nên đã  tập trung nhiều nền văn hóa với những phát kiến để hình thành nền văn  hóa Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của nhân loại. Mực nước  dâng cao dần khiến cư dân Hoabinhian mà chúng tôi cho là những người  Tiền-Việt Protoviets  ở lưu vực 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu  Long phài thiên cư theo hướng Tây Bắc lên miền cao sơn nguyên giữa 2 dãy  núi Hi Mã Lạp sơn (Himalaya) và Côn Luân (Kunlun), nhánh khác tiến theo  hướng Đông Bắc lên định cư ở vùng núi Ngũ Lĩnh tỉnh Phúc Kiến, Triết  Giang, núi Thái Sơn ở Sơn Đông TQ bây giờ.  Họ mang theo đặc trưng của  văn hoá Hoà Bình lên địa bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng núi cao  nhất là Hi Mã Lạp Sơn và cổ nhất là Côn Luân ở Tây Bắc và vùng núi cao  Thái Sơn ở Sơn Đông.   Khi mực nước biển hạ xuống, những vùng biển nước  mênh mông nước rút dần để lộ ra những vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Tiền  nhân chúng ta đã từ vùng cao nguyên Hi Mã Lạp sơn tiến xuống vùng đồng  bằng, nước rút đến đâu từng đoàn người tiến tới đó để lập làng định cư  khai phá đất đai. Chính sự kiện tiến về vùng sông nước này đã để lại ấn  tích trong truyền thuyết kể lại rằng mẹ Âu cùng 50 con ở lại vùng cao,  Bố Lạc dẫn 50 con xuống “Thủy Phủ” miền sông nước. Hai Thạc sĩ sử địa  người Pháp là J Loubet và P Gouron đã tìm ra địa danh Thủy Phủ chính là  cảng Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên Phủ Trung Khánh TQ bây giờ. Thế là truyền  thuyết mới đầu tưởng là hoang đường huyền hoặc nay đã trở thành hiện  thực.   Tất cả chứng cứ khoa học cho phép chúng ta kết luận là giai đoạn  đầu thời đại đồ đồng khoảng thiên niên kỷ thứ III TDL hoàn toàn phù hợp  với niên đại truyền  thuyết là 2879 TDL. Đây chính là thời điểm Việt  tộc đã nung chảy xã hội nguyên thủy để thành lập một xã hội định chế hoá  của quốc gia Văn Lang. Thật vậy, kết quả của những phân tích bằng phóng  xạ carbon C14 than tro ở Đồng Dậu cho biết cộng đồng dân cư với nền văn  hoá Phùng Nguyên cách đây ít nhất là 3.500 năm. Điều này có nghĩa là họ  đã có một cuộc sống ổn định đi vào tổ chức thiết chế xã hội với hình  thức nhà nước Văn Lang. Sự xác định của niên đại khảo cổ là khoảng thiên  niên kỷ thứ III TDL hoàn toàn phù hợp với niên đại thư tịch để chứng  minh sự ra đời của nhà nước Văn Lang ít nhất là 3.000 năm TDL chứ không  phải vào thế kỷ thứ VII TDL như Đại Việt sử lược đã bị sử quan triều  Thanh, Tiền Hi Tộ sửa đổi sự thật lịch sử.  Những công trình khoa học  thuyết phục này là lý chứng hiển nhiên phản bác mọi  nhận định sai lầm  từ trước đến nay về nguồn gốc Việt tộc.  Như vậy, Việt tộc khởi nguyên  từ người cổ Hòa Bình gặp nạn biển tiến phải thiên cư lên miền Bắc cư trú  ở cao nguyên Malaya nên gọi là Malaynesian. Sau khi nước biển rút, cư  dân này lại di chuyển xuống vùng đồng bằng lưu vực các con sông Hoàng  Hà, Dương Tử và thượng nguồn sông Cửu Long, sông Hồng để sinh sống bằng  nghề trồng lúa nước. Hán tộc từ Tây Bắc Trung Quốc tràn xuống đánh đuổi  nên cộng đồng Bách Việt phải di cư dần xuống phương Nam theo thời gian.  Lãnh thổ Văn Lang cứ thu hẹp dần để rồi trụ lại ở phần lãnh thổ hiện nay  của Việt Nam. Hoàn cảnh lịch sử khiến các chi tộc Việt trước đây ở tản  mác khắp Trung nguyên, các cuộc xâm lược của  Hán tộc khiến tất cả các  chi tộc hội tụ trên phần đất Việt Nam đã tạo thành một sức mạnh tổng lực  vô song đánh tan mọi cuộc xâm lược của Hán tộc để sống còn mãi tới muôn  đời.
BẢN ĐỒ THÁI BÌNH DƯƠNG PACIFIC OCEAN
Phạm Trần Anh
TTđTD - theo AnVietToanCau 
Ảnh: Internet
No comments:
Post a Comment