Tuesday, August 28, 2012

MINH TRIẾT AN VI QUA HUYỀN SỬ DÂN TỘC

 Huyền Sử Là Gì?
     Huyền thoại là tự truyện của một dân tộc được kể lại trong cái lung linh sử mệnh của dân tộc. Sử mệnh của một dân tộc là con đường tiền nhân mặc khải qua những thăng trầm, của phút nội tỉnh, những phút trổi vượt về miền tâm linh siêu việt, của những ước vọng hừng hực Lửa Sinh Sinh không mất đi trong hành trình sinh tử. Huyền sử là Tiềm Thức cộng thông của Dân Tộc, nơi đó tiền nhân gửi gấm linh hồn vượt không gian và thời gian qua huyền thoại.
      Do đó, Huyền sử là di bảo thiêng liêng, là giá trị tinh thần của dân tộc do bao đời kết tinh, là linh hồn của lịch sử. Huyền sử là ý nghĩa của sử, là đạo lý của sử, là mạch sống đời đời của sử. Nếu sử ký là Sử hàng Ngang, nhằm ghi lại sự kiện bám sát vào không gian và thời gian, thì Huyền sử là sử hàng Dọc, vượt lên, bao trùm không thời, đi vào cội nguồn của hồn sử. Những biến cố của sử ký có tính cách cá thể, chỉ xẩy ra một lần, trong một không gian và thời gian nhất định. Vì thế, địa danh và niên đại phải được ghi chép rõ rệt và trở thành quan trọng. Nhưng trái lại, ý nghĩa của Huyền sử nhắm tới cái gì phổ quát, vượt lý trí phân minh, đi vào miền thâm sâu của tiềm thức, tiếp cận miền vi tế của tâm linh. Vì thế những địa danh, niên đại, cũng như các nhân vật phải được hiểu một cách co dãn, trừu tượng, vì Huyền sử là đạo lý của dân tộc được gửi gấm qua những mảnh vụn lịch sử. Do đó, nếu sử ký là sử vòng Ngoài của những biến cố Ngoại Diện, thì Huyền sử là sử vòng Trong của Tâm Linh Dân Tộc. Hay nói cách khác, nếu sử ký là câu chuyện của Tử Sinh, thì Huyền sử là cõi Sinh Sinh Bất Tuyệt.
     Do đó, muốn tiếp cận ánh sáng tâm linh của Huyền sử, con người cần phải thả lỏng các ràng buộc của quy luật sử ký, cần dọn tâm hồn cho trống rỗng, tâm không nghiêng lệch, ô nhiễm từ bất cứ ý niệm nào. Mở lòng ra, lòng Hư Vô, và bắt đầu cung kính mở trang Huyền Sử Việt. Cuộc hội thoại với Tâm Linh Dân Tộc chỉ cần một hành trang duy nhất là không một hành trang gì được mang theo – Đọc Huyền sử với Tâm Vô Tư, Vô Nhiễm, Vô Cầu. 
                                                     
Chính Văn và Ý Nghĩa

Truyện Hồng Bàng
     Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi tuần đến núi Ngũ Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ Tiên đem lòng yêu mến mới cưới về, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh túc thành; Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi vua; Lộc Tục cố nhường cho anh, Đế Minh lập Đế Nghi làm tự quận cai trị phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ Quốc.
     Kinh Dương Vương xuống thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân; Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dậy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử, phu phụ; hoặc có lúc đi về thủy phủ nhưng trăm họ vẫn được yên ổn. Dân lúc nào có việc cần thời kêu Lạc Long Quân: “Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng ta”, thì Lạc Long Quân lập tức đến ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trắc lượng được.
      Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên hạ vô sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ, Đế Lai bèn khiến Xi Vưu tác chủ quốc sự mà nam tuần qua nước Xích Quỷ thấy Long Quân đã về thủy phủ, trong nước không vua, mới lưu ái thê là Âu Cơ cùng với bộ chúng thị thiếp ở lại hành tại. Đế Lai chu du khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thể, trông thấy kỳ hoa, dị thảo, trân cam dị thú, tê tượng, đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị, không thứ nào là không có; khí hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế Lai ái mộ quá, quên cả ngày về.
     Nhân sẵn về nên mới đem nhau kêu rằng: “Bố ở phương nào nước nam khổ về sự phiền nhiễu, không yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Long Quân, nên mau về cứu nhân dân”.
     Lạc Long Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu Cơ ở một mình dung mạo đẹp lạ lùng, yêu quá mới hóa ra một chàng trai nhi lang phong tú mỹ lệ, tả hữu thị tùng đông đảo, tiếng đàn ca vang đến hành tại. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang. Đế Lai về không thấy Âu Cơ bèn sai quân thần tìm khắp thiên hạ. Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách, nào là yêu tinh quỷ mị, nào là long xà hổ tượng, kẻ đi tìm úy cụ, không dám lục đảo tận cùng. Đế Lai trở về Bắc lại truyền ngôi cho Đế Du Võng. Du Võng truyền lại cho Xi Vưu cùng với Hoàng Đế đánh nhau ở Bản Truyền và Trác Lộc không hơn nên tử trận. Họ Thần Nông biến mất. Âu Cơ ở với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, bà đem về nuôi nấng, không phải cho ăn, cho bú mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn, ai cũng uy phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường.
     Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh ngày đêm trấn ngự quan tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân “Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!” Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương Dã. Âu Cơ nói:
     -Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm trai mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò võ.Lạc Long Quân bảo:
     -Ta là loài rồng, sinh trưởng ở thủy tộc; nàng là giống Tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi trai về thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc gì thì cùng nghe, không được bỏ nhau.
     Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ giã ra đi. Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang; về bờ cõi của nước thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam đến nước Hồ Tồn (bây giờ là nước Chiêm Thành), chia trong nuớc làm mười lăm bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Vũ Định, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận, sai các em phân trị, đặt em thứ là tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng; con trai vua gọi là Quan Lang, con gái gọi là Mỵ Nương, quan Hữu Ty gọi là Bố Chính, thân bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khởi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi.
     Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên bạch với vua. Vua bảo rằng:
     - Ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại.
     Bèn khiến lấy mực châm hình trạng thủy quái ở thân thể, từ đó tránh được nạn giao long cắn hại; cái tục văn thân của Bách Việt thực khởi thủy từ đấy.
     Ban đầu quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo cất làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cầy, lấy nước cấy đất trồng gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, lấy cây làm nhà để tránh nạn hổ lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện việc vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì  giã cối gạo cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu để làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới tương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.
     Bách Nam là thủy tổ của Bách Việt vậy.
Ý  Nghĩa
     Qua Huyền Sử Hồng Bàng, dân tộc ta có truyền thuyết về nguồn gốc Người Việt là Con Rồng Cháu Tiên.
     Như đã trình bầy ở trên, huyền thoại dân tộc là lời gửi gấm sâu xa về ý nghĩa nhiều hơn sự kiện. Tiên và Rồng là hai biểu tượng chỉ Hai Linh Lực của cuộc sống. Hai sức sống ngược chiều nhau như Tiên và Rồng trong huyền thoại, ví von như Tiên ở trên núi, Rồng gốc dước nước. Hai sức đối nghịch không giống nhau được, như Hữu-Vô, Tán-Tụ, Tử-Sinh, Tâm-Vật, Lý-Tình…Sự mâu thuẫn phải gây ra ly biệt, cho nên sự chia tay của Lạc Long Quân và Âu Cơ là sự chia tay tất yếu của lý trí khi nhìn ở sự cách ly của vạn hữu. Vì, Lý Trí là Phân Biệt.
     Thật thế, nếu ta thử ngắm nhìn ngoại giới với giác quan thông thường ta sẽ thấy vạn vật rõ ràng phân biệt với hai khuynh hướng cực kỳ khác biệt: Thế giới cụ thể này quả thực là có; có xác thân với bao là nhu cầu cần thỏa mãn, có cảm xúc mừng giận buồn vui với tất cả chấn động của thân tâm; có mùa trăng hạ huyền, có hương táo nồng nàn… Nhưng rồi tất cả những đọng ngừng tưởng chừng như có thật ấy rồi cũng trôi qua, không níu giữ được mãi, nên con người mới vỡ lẽ ra cái hư vô đã ẩn tàng nơi sự vật, nơi  kết tụ mong manh đã ngầm chứa sự biệt ly, trong sự  sinh tồn đã có lưỡi hái huỷ diệt. Ý thức về hai sức mâu thuẫn trong bản thể vạn vật làm con người - dù mặc nhiên hay minh nhiên - xác nhận bản tính cho nó nơi chọn lựa cách thái sinh hoạt: Nếu nhận rằng bản chất đời sống là những gì hữu hạn, cụ thể, thoả mãn những giá trị mà giác quan có thể kiểm nhận được, người ta đi theo khuynh hướng duy vật hữu vi một cách tích cực. Ngược lại, con người cũng có thể chọn lựa thái độ tích cực với vô vi. Hoặc một chọn lựa dung hợp, như An Vi chẳng hạn. Nghĩa tích cực ở đây có nghĩa là coi trọng, nghiêng về một giá trị này và coi nhẹ giá trị khác, là đặt nổi yếu tố đối kháng và chọn lựa dứt khoát.
     Sự việc Lạc Long Quân đề cập với Âu Cơ về các sự khác biệt, nào là: Thủy hỏa tương khắc, phương viên bất đồng chính là ý nghĩa của cái nhìn của Lý trí trên hiện tượng vạn vật. Lý trí là một khả năng hữu hiệu của con người trên bứơc đường phân tán. Nó có tính sắc bén của một con dao nên khi xử dụng lý trí trên bất cứ sự vật, sự việc gì, việc đầu tiên của lý trí là chia cắt, chẻ nhỏ, cô lập sự vật, sự việc ấy lại, nên thấy nước là nước, lửa là lửa, làm sao không bất đồng. Chỉ đặt nổi sự khác biệt, là đặt nặng đối kháng, tất phải chia lìa.
     Trong đời sống, chúng ta đã biết bao lần để cho lý trí làm chủ các quyết định, chỉ nhìn thấy sự việc một chiều. Hoặc chọn cái lợi thì phải bỏ nghĩa, hoặc chọn ích kỷ thì phải dứt tình người, hoặc chọn sắc đẹp thì phải quên đi phần đức hạnh, hoặc chọn danh vọng thì phải hy sinh chính nghĩa, hoặc chọn tâm bỏ vật, chọn vô bỏ hữu… Như thế, có nghĩa là ta đã đi vào cái vấn nạn của câu chuyện mở đầu huyền sử:Câu chuyện của Lý Trí, câu chuyện của Phân Biệt, câu chuyện của sự Chia Ly, và dĩ nhiên là câu chuyện của sự Bất An, có nước mắt, hoạn nạn, khổ đau.
     Nhưng câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ không dừng lại ở đây.
    Quan trọng nhất là đoạn Giải Kết cái mâu thuẫn của đời sống phân chia bởi lý trí. Minh Triết Việt cho sự việc Âu Cơ và Lạc Long Quân cùng đồng ý với nhau, nếu có việc cần vẫn phải gặp nhau trên Cánh Ðồng Tương, và nghe lời nhau, không được bỏ nhau, lại là một Hóa giải mâu thuẫn từ nền tảng của Tâm Vô Phân Biệt. Chữ Tình được kết thúc nơi đây thay cho Lý phải là từ giác ngộ Tâm, vì nơi đáy nội tâm sâu xa thăm thẳm ấy mới dung chứa được mọi sự khác biệt, mới nhìn thấy được cái phân chia của lý trí là giả tạo, hẹp hòi, thiển cận. Trầm tư, tâm tư, thả lỏng ý thức bén nhậy đi, con người mới bắt được cái Hư Không, mới trực nhận được Hư Không ấy mới là Lẽ Thật, mới không chỉ thấy đời chỉ là phân ly, dị biệt của từng vạn vật, mới Hội Tụ về Nhất Thể, mới tìm được suối nguồn Bình An, Hạnh Phúc miên viễn giữa lòng đời.

     Trong ý nghĩa đó, Huyền thoại Tiên Rồng đã muốn nói một sự Tương Quan giữa hai đối nghịch đều phải Kết Hợp làm một ở đích điểm của mâu thuẫn. Tiên Rồng là nguồn gốc của người Việt, hay nói rõ hơn, Tiên Rồng là Bản Thể của vũ trụ, vạn vật và con người muôn nơi muôn thuở. Thật thế, chúng ta thử quan sát và chiêm nghiệm mọi lẽ vận hành trong tự nhiên hay mỗi sinh hoạt của con người đều phản ánh nguyên lý hòa hợp trong mâu thuẫn, tương quan trong đối lập. Vạn sự vạn vật tự bản thể đều có rồi không, không rồi lại có. Nhưng làm sao ta biết được là Thực Tại là có hay không. Vạn vật nương nhau tồn tại và phân định danh phận cho nhau xuất lộ nơi từng cặp mâu thuẫn tịnh  hành:Nam-Nữ, Thiện-Ác, Tiểu-Đại, Động-Tịnh, Ngày-Đêm…Trong sự tương đối ấy, mọi sự mâu thuẫn đều là điều kiện của nhau. Có xác định người nam thì mới có tiêu chuẩn y cứ mà cho rằng người kia là nữ. Vì cho rằng có điều gọi là thiện thì mới gọi điều ngược lại là ác. Có vật cho là nhỏ thì mới có vật lớn. Không có biến động thì làm sao có ý thức về thường tịnh. Không có ánh sáng  ban ngày thì làm sao có bóng tối để gọi là đêm…Cho nên, chính trong mâu thuẫn, vạn vật tự xác định cái danh và phận của nhau, tự giúp nhau tồn tại, tự sinh ra nhau, và cũng sẽ tự diệt với nhau. Bản chất ấy gọi là mối tương quan nền tảng. Nếu Chân Lý là Sự Thật, thì  Mâu Thuẫn là Chân Lý, Tương Quan Mâu Thuẫn là Chân Lý Tối Cao, Kết Hợp Mâu Thuẫn là Chân Lý Nền Tảng. Khi Kết Giải Mâu Thuẫn cho Tiên và Rồng không được bỏ nhau, vẫn gặp nhau ở Cánh Đồng Tương, có nghĩa là Huyền Sử Việt đã xác tín  nhận thức về Chân Lý Toàn Diện ấy. Chân lý là nơi lưu thông những bế tắc. Chân lý là sự tương quan giữa hai chiều đối nghịch. Chân lý là nơi giao hòa của mâu thuẫn. Tiên tổ truyền lại bài học về Bản Tính của vạn vật tiêu biểu trên cánh đồng Tương, nơi gặp gỡ của hai lực đối nghịch Tiên Rồng. Cánh đồng Tương cũng chính làCánh đồng Tâm.

     Như thế, ta có thể gọi Rồng Tiên là Âm Dương, Sắc Không cũng cùng một ý nghĩa như vậy. Rồng Tiên, Âm Dương , Sắc Không chính là Bản Thể Mâu Thuẫn bất Khả Phân Ly  qua ý nghĩa của Mùa Tiên Rồng Hội Ngộ nơi Tương Dã trong Huyền Sử Việt.

     Ngày nay khoa học minh chứng trong điện, cũng có hai dòng điện tiêu, tích. Phân tích một nguyên tử cho biết đó chỉ là sự cấu tạo của âm điện tử và dương điện tử. Với  thuyết tương đối của Einstein thì  hai thực thể cơ bản làm nên mọi hiện tượng vạn vật là Thời gian và Không gian không phải là hai thực thể độc lập không có chi liên hệ. Mà không gian và thời gian liên kết, vũ trụ này chỉ là một khối Không-Thời-Liên.  Trong lãnh vực y khoa, cơ thể luôn sinh ra chất đề kháng với các chất có hại cho nó (bệnh chỉ là sự bất quân giữa các liều lượng của chất thuận và nghịch). Hệ thống điện toán ngày nay chỉ dựa trên sự áp dụng của hai tình trạng 0 và 1.

     Như vậy theo kiểu nói của ngôn ngữ nào, biểu tượng trong huyền sử, mạch lạc trong triết lý, hay cụ thể trong khoa học, cũng đi đến những ý nghĩa như nhau về bản thể của vạn vật, và cũng là bản chất của con người: Hòa điệu giữa hai đối nghịch, Một mà Hai, Hai mà Một, Mâu Thuẫn nhưng không hủy diệt, Tương khắc Tương sinh, Sắc Sắc Không Không.

     Trên chiều hướng đó, Huyền Sử Con Rồng Cháu Tiên được hiểu như hai cột trụ chống đỡ khung Tâm Thức con người của Minh Triết Việt. Khi Rồng Tiên còn chia cách, thì Rồng có thể biểu hiệu cho bản chất hướng ngoại, phân chia, suy luận, lý trí, ý thức, hiển nhiên như Tâm còn ở trong chốn đầm lầy tù hãm có tính chất vật thể giới hạn, tức Rồng mới ở giai đoạn khởi đầu của tiến trình Cá thể hóa của cõi Hiện tượng, còn nặng phần tiểu tâm, tiểu trí của cái “ta” nhỏ bé ở đợt hiện hình, ngoại diện. Còn Tiên có thể biểu hiệu cho bản chất hướng nội, tổng quát, trực giác, tâm tư, tiềm thức, nhưng Tâm vẫn còn ở trong trạng thái mông lung, hàm hồ, đồng nhất với cõi Vô thức.

     Muốn thoát khỏi “gọng kềm” nhị nguyên đối kháng  nêu trên, là tình cảnh phải “chọn một bỏ một”, hoặc một bên Ý Thức phân ly, tính toán sắc cạnh,  hoặc bên kia, Tiềm Thức hàm hồ, âm u, tăm tối, như phải chọn hoặc Lý hoặc Tình, một vấn nạn khó khăn, mà muốn giải quyết, Hành giả phải tạo điều kiện cho Rồng Tiên Hội Ngộ. Được như vậy thì Rồng mới vùng vẫy, uốn khúc được để trở thành Rồng Thiêng, vì Rồng không còn biểu hiệu cho lý trí của ý thức cá nhân hữu hạn nữa, mà nhờ tiếp cận với Tiên, tức nội dung của Tiềm Thức thâm sâu nên Rồng đã trở thành Biểu Tượng của Ý Thức Sáng Láng Về Toàn Thể Thực Tại mang tính Vô Biên. Còn Tiên dưới ánh sáng của Ý Thức Toàn Diện của Rồng, đã vượt qua được trạng thái “vô phân biệt” Nguyên thủy của trạm Quỳnh Hư của cõi Tiềm Thức mông lung để bước vào điện Giao Quang của miền Tâm Linh Siêu Tuyệt.

     Rồng Phải Hội Ngộ cùng Tiên trong Ý Nghĩa con người với cái “ta” Ngoại thuộc về Lý Trí Hiện tượng có khuynh hướng liên hợp với cái “TA” uyên áo của Nội Tâm sâu thẳm. Rồng không còn là Rồng nữa với xác thân hữu hạn, mà đã “Siêu Việt” để trở thành Rồng Thiêng khi tiếp cận Giấc Mơ Tiên. Cũng tương tự, Tiên cũng rộn ràng đam mê nhiệt đới, cũng không thể khước từ trái Táo địa đàng. Tâm Thức Rồng Tiên là Tâm Thức Toàn Diện của Cơ Cấu Uyên Nguyên. Cá nhân chỉ Trọn Vẹn Hóa trong Tương Quan, Thống Nhất với Toàn Diện Tính của Bản Thể Rồng Tiên. Trong tất cả những đa đoan của đời sống chẳng qua chỉ là một trường thử nghiệm của khuynh hướng tìm về chính Mình, Bản Tính Liên Hợp, có nước mắt của chia xa và niềm hân hoan hạnh ngộ. Nói một cách khác, Chân Lý Rồng Tiên ẩn tàng nơi Tương Dã chính là Lời Hẹn của Tình Yêu giữa Đạo với Đời. Cho nên Đạo Mới Không Xa Đời.

     Huyền Sử Tiên Rồng còn gửi lại ý nghĩa thêm nữa trong việc Mẹ Âu Cơ sinh được 100 trứng trong một bọc, sau này 50 con ở lại với mẹ và 50 con theo cha xuống biển. Bọc đây phải hiểu theo nghĩa Tâm Linh  là một bọc tròn ôm ấp chân lý tròn đầy của Tiên Rồng, chân lý kết hợp, hòa điệu của Tiên Rồng, Chân lý bất khả phân ly của Đạo Thể Viên Dung. Một trăm ở đây cũng là biểu tượng cho sự toàn vẹn của mỗi khả thể, 100 là cái toàn thể, toàn thiện của chân lý. Chân lý không để phần tử nào phải lẻ loi cô độc. Chân lý là tròn đầy. Chân lý như là tổng số 100.

     Đi vào thể dụng của chân lý, Tiên Rồng với bọc trăm trứng giúp cho người Việt cảm thấy gần gũi nhau hơn trong ý nghĩa đều là cùng một bụng mẹ Âu Cơ, cùng phải thân yêu, đùm bọc lẫn nhau, kết quả là ta có chữ đồng bào (cùng một bọc) để gọi nhau. Và, gọi người cai quản sinh hoạt xã hội bằng “bố”, một từ mà sau này người Việt dùng để gọi cha ruột thịt của mình. Một hình ảnh thân yêu và gần gũi giữa người một nước coi nhau là con một bọc của mẹ, dân gọi vua âu yếm và tin tưởng như cha, ta thấy một dân tộc có trình độ văn hóa cao siêu và nhân bản đã biểu hiện qua Huyền sử Tiên Rồng một cách thơ mộng mà thiết thực như thế là cùng! Còn có một nền nhân bản nào cao siêu hơn? Chúng ta hãy tìm hiểu các nền văn minh trên thế giới. Tây phương khởi nguồn từ văn minh Hy Lạp, mà theo đó, con người là con cháu của các thần thánh hung dữ và độc ác, đầy đủ thói hư tật xấu của trần gian. Con người vì vậy rất sợ hãi sự thịnh nộ và trừng phạt của các thần, nên giới thống trị dựa vào sự tin tưởng ấy để đưa đến một xã hội phi nhân bản, phân chia giai cấp, điển hình là chế độ nô lệ. Tổ sư triết học Tây phương là Socrate, Platon, Aristote đã chấp nhận và bênh vực cho chế độ nô lệ. Rồi sau đó kỹ thuật tiến dần thì chế độ nô lệ bãi bỏ, chứ không do một lý tưởng cao đẹp nhân chủ bình đẳng nào hô hào bãi bỏ. Ấn Độ cũng không hơn gì. Niềm tin vào thần thánh khiến sự phân chia giai cấp vì lý do sanh bởi chân tay của thần thánh thì phải làm nô bộc cho giai cấp sanh từ đầu của thần thánh, rốt cuộc đại đa số dân chúng làm nô bộc cho một thiểu số tư tế và quý tộc. Ta thử xem bảng thống kê về sự bãi bỏ nô lệ, mới chỉ xẩy ra chưa bao lâu: Hoa Kỳ bãi bỏ nô lệ năm 1808, Anh 1833, Pháp 1845, Bồ Đào Nha 1856.

      Trở lại Ý Nghĩa Huyền Sử trên, Tiên Rồng còn mãi mãi ly biệt, khi đời còn theo quan niệm chia cắt Thực Tại Toàn Diện  bằng cái nhìn của Lý Trí, như những thuyết Duy vật, Duy tâm, Duy Một Chiều Kích. Tiên Rồng chỉ được Hội Ngộ khi con người  nhận thức Chân Lý Hai Chiều Toàn Diện của cuộc Nhân Sinh. Hay nói cách khác, Huyền Sử Tiên Rồng đã đưa ra 3 mệnh đề : Chính Đề là Hiện Tượng  Mâu Thuẫn, Phản Đề là Lý Trí Phân Ly, Tổng Đề là Tâm Linh Vô Phân Biệt, qua sự việc Tiên Rồng chia tay  rồi  hội ngộ nơi Cánh Đồng Tương .

     Tóm lại, qua Huyền sử Con Rồng Cháu Tiên của Việt Đạo, bài học đơn giản mà ta có thể nhận ra ngay là: “Ngoài thì là Lý, nhưng trong là Tình”. Sâu xa hơn nữa, đây là một Biện Chứng Tâm Linh Tổng Hợp Chân Thực Hiện tượng và Bản Chất của nền Minh Triết Uyên Nguyên của Dân Tộc.

Truyện  Ngư  Tinh

    Trong biển Đông Hải, có loài Ngư tinh, mình dài hơn năm mươi trượng, có nhiều chân giống như chân rết biến hóa vô cùng, linh dị khó dò được; mỗi khi đi đâu thì nổi cơn mưa gió, hay ăn thịt người, ai cũng đều sợ hãi.

    Thời thượng cổ có loài mặt cá giống như mặt người, thường đi chơi trên bờ Đông Hải, hóa thành hình người, ngôn ngữ thông hoạt dần dần sinh lớn ra người trai gái, lấy cá tôm, hến ốc làm vật ăn; lại có giống người mới sinh ở hải đảo lấy sự bắt người làm sinh nhai, cũng thành ra người, cùng với đàn ông đổi chác các phẩm vật như muối gạo, áo quần, dao búa, thường qua lại ở biển Đông Hải.

      Trong có núi Ngư Tinh, miệng răng nhô ra ngoài bờ biển, ở dưới núi có một chiếc hang lớn, đó là nơi cư trú của Ngư Tinh; thuyền nhân dân qua lại phần nhiều bị hại; phong ba hiểm yếu, họ không có đằng nào mà tránh; muốn mở một lối đi ngả khác thì họ lại gặp cát đá không thể nào đào được.

      Một đêm kia có tiên xuống moi đá làm kênh cho sự thông hành của loài người được tiện lợi; kênh sắp đào xong thì Ngư Tinh hóa ra một con gà trắng gáy ở trên núi; quần tiên nghe thấy ngỡ là trời gần sáng nên đều tự nhiên bay đi hết, nay gọi là đường Phật.

       Lạc Long Quân thương dân bị hại mới làm một con thuyền lớn, ra lệnh cho Thủy Dạ Xoa cấm thần biển không được làm sóng gió, chèo thuyền đến núi Ngư Tinh, giả đem một người đến cho Ngư Tinh ăn; Ngư Tinh há miệng toan nuốt, Long Quân liền lấy một khối sắt nướng đỏ bỏ vào miệng cá; Ngư Tinh vùng vẫy nhẩy đến đánh thuyền; Long Quân chém được khúc đuôi, lột da treo lên núi, nay gọi là Bạch Long Vỹ; khúc đầu trôi ngoài biển, hóa ra chó mà chạy mất; Long Quân lấy đá lấp biển thì chém được, nó bèn hóa ra đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu; khúc mình trôi vào Man Cầu, nay gọi là Cầu Man Cẩu là bởi đó vậy.

Truyện Hồ Tinh

     Thành Thăng Long ngày xưa được gọi là đất Long Biên, đời thượng cổ chưa có người ở. Đến đời vua Lý Thái Tổ chèo thuyền ở bến sông Nhị Hà, có hai con rồng dẫn thuyền đi, nhân đó mới đặt tên là Thăng Long và đóng đô ở đấy, tức là kinh thành ngày nay vậy.

     Buổi đầu, chỗ đất này về phía Tây có một ngọn núi đá, dưới núi có một cái hang, có một  con hồ chín đuôi sống hơn một nghìn năm thành ra yêu quái, biến hóa vạn trạng, có lúc hóa ra người, có lúc hóa khỉ, đi khắp cả nhân gian, lúc bấy giờ ở dưới chân núi Tản Viên có giống người mọi gác cây kết cỏ mà ở, trên núi có một vị thần được mọi người phụng thờ.Vị thần ấy dậy mọi người cày ruộng, dệt vải may áo tràng mà mặc, nhân đó gọi là bạch y man.

     Hồ chín đuôi hóa ra người áo trắng nhập vào trong bọn mọi, cùng lũ mọi ca hát, dụ dỗ được con trai, con gái nào thì đem về nhốt ở hang đá; người mới lấy làm khổ sở về việc ấy.

     Long Quân mới sai bộ hạ Thủy Phủ dâng nước lên đánh phá núi Tiêu Thạch Sơn, đào thành một cái hầm lớn, chính giữa thành có một chiếc vực sâu, gọi là Thi Hồ Trạch (nay là Hồ Tây) rồi lập chúa quan để chấn yểm nữa (nay là Thiên Niên Quán), bờ phía Tây bên đầm thì đồng nội bằng phẳng, ruộng ao cầy cấy, gọi là Lỗ Hồ Động. Chỗ nào cao ráo thì đều có dân cư, tục gọi là Hồ Thôn. Còn cái hang này gọi là Lỗ Hồ Đàm vậy.

Ý  Nghĩa

     Hai truyện huyền sử trên chỉ cùng chung một ý nghĩa của sự dứt bỏ những tà vọng, mê hoặc thường ẩn náu trong những thần thoại nhân gian. Sự tiêu diệt thần thoại là cuộc Khai Quang triệt để để dọn Đất Tổ cho ngôi nhà Nhân Bản sau này của Tâm Thức Việt. Bố Lạc đã dậy dân đoạn trừ tâm trạng sơ khai bái vật để thay thế vào đó những truyện về nguồn gốc nòi giống, những bài học dựng nước dựng nhà, những việc khai phá thiên nhiên, những mối nhân luân cụ thể và chân thực.

Truyện Trầu Cau

     Đời thượng cổ, có một chàng tên Quang Lang trang mạo cao lớn. Quốc  vương cho là họ Cao, nhân lấy chữ Cao làm họ, sinh được hai trai, người đầu tên là Tân, người thứ tên Lang. Cha mẹ chết, hai anh em sang trọ học nhà thầy đạo sĩ họ Lưu, cũng gọi là Lưu Huyền.

     Nhà họ Lưu có một người con gái, tuổi chừng mười bẩy hay mười tám muốn tìm đôi bạn, nhưng không biết người nào là anh em, bèn bưng một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn để xem ai là anh ai là em. Thấy người em nhường cho người anh ăn trước, nàng bèn ghi nhớ lấy, đem tình thực trình bày với cha mẹ. Cha mẹ gả cho người anh kết làm vợ chồng, tình ái ngày càng thân mật.

     Sau đấy, người em thấy người anh đối xử với mình không bằng lúc xưa, đem lòng hờn giận mới bỏ mà đi. Đến một nơi thôn dã bỗng gặp một cái suối lớn: Không có thuyền để sang ngang, người em ngồi một mình khóc ròng rồi chết hóa thành một cái cây.

     Đến khi người anh mất em mới bơ vơ đi tìm thì thấy em đã chết bèn gieo mình bên gốc cây, mà tự tận hóa thành một tảng đá quấn quanh gốc cây.

     Sau đấy, người vợ lấy làm lạ sao chồng mình đã đi lâu mà không thấy về liền bỏ đi tìm, thấy chồng đã chết, nàng cũng gieo mình ôm lấy tảng đá mà chết luôn, hóa ra một sợi dây leo vấn vít trên đá, ngọn lá mùi thơm và cay.

     Cha mẹ Lưu thị đi tìm con, đến đó cũng than khóc, rồi lập đền thờ, người đương thời đi qua đấy, ai cũng đốt nhang vái lậy, khen là anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa.

     Trong khoảng tháng bẩy, tháng tám, khí còn nóng, Hùng Vương đi tuần hành thường nghỉ chân ở đấy để tránh nắng. Trông thấy trước đền im mát, dây lá phủ trùm, Vương lên tảng đá đứng ngắm nghía, hỏi ra mới biết công việc như thế, Vương lập tức bảo cận thần hái một trái cây ăn và hái một lá dây leo, Vương thân nhai đi rồi nhổ trên đá, thấy có sắc đỏ tươi biết là vị ngon mới lấy đem về, bảo lấy đá lửa nung làm vôi, cùng với trái cây, lá dây hợp thành một mà ăn, thấy vị ngọt béo, thơm cay, môi mép sinh đỏ, mới truyền ban ra thiên hạ, phàm những lễ giá thú, hội đồng lớn nhỏ, đều phải lấy vật này làm trước. Ngày nay cây cau, cây trầu không, đá vôi là do đó. Từ bấy giờ nước Nam có tục ăn trầu cau là bắt đầu từ đấy vậy.

Ý  Nghĩa    

        Truyện Trầu Cau nói lên tình nghĩa anh em, vợ chồng không sao chia lìa được và cùng sống chết cho nhau. Đây là thể hiện một cơ chế gia đình bền chặt, anh em thương yêu đùm bọc nhau, vợ chồng tiết nghĩa bên nhau. Cái nôi Văn Hoá Rồng Tiên đã nuôi dưỡng tình nghĩa anh  em, vợ chồng trong nền tảng của sự Hòa Hợp, mà Không Chọn Một Bỏ Một.Trong truyện này, người em và người vợ biểu hiệu cho ý thức “Chọn Một Bỏ Một”. Đối tượng yêu thương của hai người là người anh. Họ trông chờ là người anh có sự chọn lựa dứt khoát. Vì nghĩ là anh mình đã chọn vợ, nên người em chỉ biết âm thầm bỏ nhà ra đi vì tủi thân. Nhưng người anh xứng đáng đâu vì hạnh phúc riêng tư mà mặc em mình ra đi không gia đình nương tựa, nên phải gạt hạnh phúc cá nhân để đi tìm người em ruột thịt của mình và đau khổ cùng chết bên em. Và người vợ tiết nghĩa kia cũng đâu phải chỉ biết mình. Người vợ đã đi tìm chồng và cùng chết bên chồng cho trọn đạo phu thê.

      Tác giả của Huyền sử, tức Tiềm Thức Cộng Thông của khối Dân Gian, qua câu chuyện trên, tuy bề mặt nói về chuyện tình cảm mâu thuẫn giữa tình ruột thịt và nghĩa vợ chồng, nhưng thật sự chuyên chở Bài Học về Tâm Đạo. Thật thế, Huyền Sử dùng câu chuyện với các nhân vật của cõi lý trí, hiện tượng, nên “có anh, có em, có vợ chồng, có chị dâu em chồng”, nhưng lại chuyên chở một Ý Nghĩa Khác, của cõi Tiềm Thức, Tâm Linh. Do đó, muốn đi vào Ý NGHĨA MỚI, ý nghĩa của Huyền sử, của cõi Tiềm Thức, Tâm Linh, thì ta phải quên những ước lệ của xã hội, tức của cõi lý trí, hiện tượng. Trong cõi Tiềm Thức, Tâm Linh, không còn “anh em, chồng vợ, chị dâu em chồng” gì nữa cả. Chỉ Còn Lại nơi Ý Nghĩa mà mỗi người Biểu Hiệu mà thôi. Biểu Hiệu của người em là Cây Cau, người Vợ là Dây Trầu, là hai vật khác biệt biểu hiệu cho quan niệm “Chọn một bỏ một”, tức không trầu thì cau, không cau thì trầu, chứ không thể vừa trầu vừa cau. Nhưng may mắn có yếu tố thứ ba là Vôi dàn hòa được Trầu với Cau. Biểu hiệu của người anh phải là Vôi, là Nguyên Lý Hòa Hợp. Ngoài ra, trước khi là Vôi, là Tảng Đá, tức cái gì Nền Tảng mà Trầu và Cau phải dựa vào.

     Ngoài ra, Huyền Sử Trầu Cau đặc biệt với truyền thống Việt Đạo đề cao vai trò của Phụ Nữ. Ngay từ thuở đầu của truyện kể, ta thấy người vợ tiết nghĩa này, cô gái chân thực năm xưa, đã biết tìm cách mời cơm để dựa theo lễ nghĩa mà kén chọn. Hình ảnh người em nhường kính anh mình chén đũa ăn cơm trước, cho ta thấy cách xử sự của mối tình ruột thịt trên kính dưới nhường trong truyện. Và ta nghĩ gì về vai trò người Phụ Nữ ở đây? Nàng quả là người nắm cán cân Đạo Nghĩa trong gia đình. Nàng mời cơm để biết ai là anh, ai là em để cư xử có tôn thứ trong đời. Thêm nữa, tính chất Chủ Động trong hôn nhân đã được ghi nhận ở đây, cô gái nhà họ Lưu tự ý tìm hiểu, kén chọn ý trung nhân, sau đó mới trình thưa với cha mẹ về quyết định, sự chọn lựa  của mình. Trong tinh thần đó, ta nhận thấy địa vị và phẩm giá người phụ nữ được đề cao cách đặc biệt. Người Phụ Nữ nơi đây được đại diện cho sự bén nhậy trong ý hướng thực hiện Đạo Nghĩa, biểu tỏ khả năng cảm xúc từ Tâm Đạo trổi vượt. Chính vì nhận thức được phẩm giá tự nhiên của người Phụ Nữ thiên về Đức Sáng của Tâm Linh, nên nền Văn Hóa Việt xưa sớm có Truyền Thống Tôn Trọng Phụ Nữ như phụ nữ được tham dự với chồng Đồng Tế trước bàn thờ Gia Tiên, như quyền tự do kết hôn trong Huyền Sử trên. Thừa hưởng truyền thống Nhân Bản ấy của Tổ Tiên, bộ Luật Hồng Đức của nước ta thời vua Lê Thánh Tôn năm 1483 đã có đủ những tiêu chuẩn Nam Nữ Bình Quyền mà phải đợi đến 400-500 năm sau luật pháp Tây phương mới bắt đầu biết ca tụng trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. (Xem Phụ Lục II “Tính Chất Nhân Bản Trong Quốc Triều Hình Luật ” - Luật Hồng Đức - Tài liệu của Lê Việt Thường).

     Tóm lại, Văn Hóa của ta thâm thuý bao nhiêu khi mở đầu cho phong tục ăn trầu bằng bài tình thâm gia đình tuyệt đẹp. Người phụ nữ đã Minh được Lý An Vi, thấy việc hợp Đạo Nghĩa thì làm, dẫu cho kết quả có ra sao, nên không trách chồng đã ra đi tìm em, mà lại  chết bên chồng, cùng với hai anh em làm thành bài thơ đạo lý gia đình bền chặt. Chúng ta nghĩ gì khi đọc bài học đời xưa đó? – Đó là sứ mệnh của văn hóa. Văn hóa làm nổi sứ mệnh mình bằng cách trao truyền lại thế hệ đi sau bài học tình thâm nghĩa nặng, nền tảng gia đình bền chặt, Nguyên Lý Hòa Hợp, Không chọn một bỏ một hay không, sau bao năm trốc gốc rễ cây, xa mạch nguồn Văn Hóa Mẹ. Ngày hôm nay chúng ta như những thế hệ lai đủ mọi cặn bã của văn minh. Nền tảng gia đình lung lay tận gốc rễ, dù chỉ có hai người. Cá nhân chủ nghĩa, cặn bã của văn minh Tây phương đã làm băng hoại gia sản tinh thần cao đẹp. Tự do, niềm bình an, hạnh phúc mà ta được hưởng từ nền tảng gia đình đã mất mát nhiều. Gia đình hôm nay nặng về sự hợp tác kinh tế giữa hai cá nhân, sự chia rẽ đến độ thực tế chỉ vì vật chất hay sự ích kỷ cá nhân đã giết chết lý tưởng chân chính của mái gia đình. Và di hại đến tâm lý và văn hóa của những thế hệ mai sau. Hãy ôn lại huyền sử Trầu Cau trong kinh nghiệm của thế hệ vong bản hôm nay để từ đau thương, đổ vỡ của nhân tính, chúng ta khôi phục lại những giá trị của Văn Hóa Dân Tộc. Và, cũng là giá trị Nhân Bản thích hợp cho con người mọi nơi và mọi thời đại.

Truyện Đầm Nhất Dạ

     Hùng Vương truyền ngôi đến vua cháu ba đời, có sinh được người con gái tên là Tiên Dung Mỵ Nương, tuổi vừa mười tám, dung mạo tú lệ, nguyện không lấy chồng, chỉ thích ngao du thiên hạ. Vương chiều mà nghe theo. Mỗi năm khoảng tháng hai, tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh ngoài biển, vui chơi quên cả ngày về.

     Lúc bấy giờ ở làng Chử Xá có người tên là Chu Vỹ Văn sinh được người con trai là Chử Đồng Tử, hai cha con vốn tính hiền lành, nhà nghèo lại gặp nhà cháy, của cải khánh tận chỉ còn một cái khố vải, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc. Bị bệnh già, cha bảo con rằng:

     -Ta chết thì chôn lộ thể cũng được, để cái khố lại cho con mặc kẻo xấu hổ.

     Cha chết, người con không nỡ làm thế, cứ để cả khố mà chôn. Chử Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, đói rét khôn xiết, mới cầm cần câu đi đến bên bờ sông câu cá, thấy thuyền buồm đi qua, đứng dưới nước mà xin ăn. Nào ngờ thuyền của Tiên Dung bỗng đến đó; nghe thấy tiếng chuông trống đàn sáo, thấy những nghi trượng cờ xí, Đồng Tử sợ hãi, không biết trốn vào đâu, trông thấy trong bãi phù sa có chòm lau sậy, lơ thơ năm ba gốc, bèn ẩn thân vào đó, đào cát thành huyệt để giấu mình, lại lấy cát vùi lên trên.

     Giây lát, thuyền của Tiên Dung ghé vào đó; nàng dạo chơi trên bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín cả chỗ lau sậy để tắm.

Tiên Dung vào trong màn, cởi áo múc nước dội tắm; cát chẩy, thân hình Đồng Tử lộ ra, hồi lâu Tiên Dung biết là con trai. Tiên Dung nói:

     -Ta đã không thích lấy chồng, nay lại gặp người này cùng lộ thân với nhau trong một huyệt cát, có lẽ trời khiến thế chăng? Thôi người hãy dậy mà tắm rửa đi.

     Rồi ban cho quần áo, cùng nhau xuống thuyền ăn uống hoan lạc; người trong thuyền đều cho là một sự gặp gỡ tốt lành xưa nay chưa từng có.

     Đồng Tử nói rõ sự tích mình cho Tiên Dung nghe; Tiên Dung thương xót, bảo làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ. Tiên Dung nói:

     -Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà từ chối?

     Những người tháp tùng vội đem việc ấy tâu lên vua Hùng Vương; Hùng Vương giận bảo rằng: Tiên Dung không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của ta, đi chơi giữa đường lại hạ giá, lấy người nghèo, còn mặt mũi nào mà ta thấy nữa; từ nay mặc kệ nó, không cho trở về nước nữa. Tiên Dung nghe tin, sợ không dám trở về mới cùng với Đồng Tử mở chợ búa, lập phố xá, cùng nhân gian mậu dịch, dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn (nay là chợ Hà Lõa); thương nhân ngoại quốc qua lại buôn bán, kính sự Tiên Dung Đồng Tử làm chủ.Có một nhà đại thương đến nói với Tiên Dung rằng:

     - Quí nhân xuất ra một thoi vàng, năm nay cùng với người nhà buôn ra ngoài biển mà mua vật quí, sang năm sẽ lời được một thoi.

     Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng:

     Vợ chồng ta do trời định khiến, ăn mặc là của trời cho, bây giờ nên lấy một thoi vàng cùng với người nhà buôn đi ra biển mà mua hàng đem về làm kế sinh nhai.

     Đồng Tử bèn cùng đi với người nhà buôn; ngoài biển có một hòn núi tên là Quỳnh Viên Sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ, người đi buôn ghé thuyền ở đấy mà múc nước; Đồng Tử lên chơi trên am, có một tiểu tăng tên là Phật Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử mới lưu lại am nghe thuyết pháp, giao vàng cho người đi buôn mua hàng, dặn lúc nào trở về thì ghé lại am để cho Đồng Tử về. Nhà sư tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón; bảo rằng:

     - Linh thông tại đây đó.

     Đồng Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói hết với Tiên Dung, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, đem nhau đi tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà chưa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cầm gậy úp nón lên trên để che. Đêm đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu son đền báu, đài các lăng miếu, kho tàng miếu xá, vàng bạc châu ngọc, chiếu giường, mùng màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt đầy ở trước mặt.

     Sáng ngày ai trông thấy cũng lấy làm kinh ngạc, tranh nhau đem những vật hoa hương, ngọc thực đến dâng hiến và xưng thần. Văn võ bá quan phân quân túc vệ, biệt lập thành một nước.

     Hùng Vương hay tin cho là con gái mình làm loạn mới phái binh đi đánh; Tiên Dung nói rằng:

     - Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là giời giun giủi; sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải chịu điều chính, chờ lệnh chém giết.

     Lúc bấy giờ những người mới tập họp, sợ hãi mà chạy toán loạn, chỉ còn bốn người cứ ở lại với Tiên Dung.

     Quan quân kéo đến đóng doanh ở bãi Tự Nhiên, chỉ còn cách một con sông lớn; ngày sắp tối nên chưa kịp tiến binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan quân đại loạn; bộ đảng thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời; đất chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn. Sáng ngày, dân gian trông không thấy thành nữa, cho là linh dị bèn lập miếu đường, thời thường đến tế, gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch, châu ấy là Man Trù Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên Châu), chỗ nay là Hà Lõa Thị.

     Sau đến thời Nam Đế, binh nhà Lương sang xâm chiếm nước ta, vua sai Triệu Quang Phục làm tướng đem binh sang. Quang Phục điều động dân chúng tàng ẩn ở trong đầm, cái đầm ấy sâu rộng bùn lầy, khó bề tiến lui; Quang Phục cỡi chiếc thuyền độc mộc qua lại cho tiện, thường nhân đêm tối, dùng thuyền mà đột xuất đánh phá cướp lấy lương thực, làm kế trì cửu cho giặc kiệt quệ. Ba bốn năm trường giặc không đánh được, Bá Tiên than rằng:

     -Đời xưa gọi là đầm nhất dạ thăng thiên, nay là đầm nhất dạ đạo kiếp.

     Gặp ở lúc Hầu Cảnh tác loạn bên Trung Hoa, vua Lương triệu Bá Tiên về, ủy quyền cho tỳ tướng Dương Sằn thống lĩnh quần chúng.

     Quang Phục trai giới thiết đàn ở trong đầm, đốt hương cầu đảo. Thoạt thấy thần nhân cỡi rồng giáng xuống giữa đầm, bảo Quang Phục rằng:

     -Ta lên trời nhưng linh dị còn đây, người có lòng thành cầu đạo, ta đến để giúp bình loạn tặc. Rồi cởi vuốt rồng đưa cho Quang Phục bảo giắt vào đầu đâu mâu, hễ đánh đâu là được đó. Nói đoạn lại bay lên trời. Quang Phục y như lời dặn đem binh đột kích, Binh Lương đại bại, chém được tướng Dương Sằn ở trận tiền, binh Lương lui chạy.

     Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập lên làm Triệu Vương, đóng đô ở quận Vũ Ninh núi Trâu Sơn.

Ý  Nghĩa

     Bài học truyện Đầm Nhất Dạ rất rõ nét của sự Bình Đẳng, Vô Giai Cấp trong xã hội nơi việc lập gia đình. Công Chúa Tiên Dung cao sang, nhưng tình nguyện lập gia đình với một người bần cùng nhất, ngay cả một cái khố che thân cũng không có. Sự không phân biệt giai cấp, ý thức con người bình đẳng là hệ luận của Đạo Lý Rồng Tiên đi vào sinh hoạt xã hội. Người chỉ là Kết Hợp của hai chiều mâu thuẫn mà Hòa hợp, tương khắc mà tương sinh. Người chỉ là thoáng Thời Không Đúc Kết, đời chỉ là  chút Lãng Mạn Uyên Nguyên của Hữu hạn giao tình cùng Vô biên. Nên với Tâm Thức Rồng Tiên của vũ trụ mênh mang, con người đâu còn bám sát vào bé nhỏ, vật chất, danh lợi, con người mới đối với nhau với một chữ Tình. Nên Công Chúa mà kết duyên với người bần cùng nhất, gia đình được dệt bằng chất liệu sống đời.

     Nhưng điểm đặc biệt mà ta cần nhận ra ở đây, ai là người Chủ Động trong sự thiết lập mối Tương Quan Bình Đẳng ấy? Chính Công Chúa Tiên Dung, nhân vật nữ trong truyện. Tiên Dung đã tự nguyện không lấy chồng, khi ở với vua cha. Rồi đến khi gặp Chử Đồng Tử, nàng tình nguyện làm vợ, mạnh mẽ trong sự thuyết phục để Chử Đồng Tử thuận lòng. Tiên Dung lại còn tự ý xây dựng cơ sở hôn nhân cuả mình, không kể  đến uy quyền của vua cha. Bấy nhiêu tình tiết, đã chứng tỏ truyền thống Tôn Trọng Phụ Nữ, quyền Tự Do Kết Hôn, tinh thần Nam Nữ Bình Quyền đã được đề cao nơi Văn Hoá Việt. Người Phụ Nữ Việt đã được quý trọng, được quyền quyết định trong các việc trọng đại của đời mình, chính vì trên bình diện Minh Triết Rồng Tiên, đã có nét Căn Cơ của Nhân Tính, mà người Phụ Nữ  lại còn là một trạm tiếp cận Trực Giác Tâm Linh tuyệt vời. Điều này Tổ tiên  ta đã trực thị từ ngàn xưa, nhưng phải mãi đến ngày nay, Khoa học về Thần Kinh Não Bộ mới chứng minh được bản chất ấy.(Xem Phụ lục I “Tư Tưởng Trừu Tượng Dưới Ánh Sáng Mới Của Khoa Học ”. Tài liệu của Lê Việt Thường).

     Ngược lại, với thân phận hẩm hiu của người phụ nữ trong xã hội Trung Hoa (luật nhà Thanh), và xã hội cổ truyền Tây phương, như Thông luật của Tây phương còn áp dụng cho tới thế kỷ 19 tại một vài tiểu bang của Hoa Kỳ, theo đó, Người Vợ là Vật Sở Hữu của Người Chồng, không có quyền tư hưũ và ngay cả với con cái của họ. Cao trào phụ nữ tại Hoa Kỳ mới chỉ thực sự lên cao từ những năm 1960, và thu được những thành quả tích cực vào những năm 1990, mặc dù ý niệm bình đẳng cũng đã có ngay bên Hi Lạp với danh từ Isonomia và đã được truyền tụng qua Âu Châu suốt thời kỳ Trung cổ. Ý niệm này được lập đi lập lại mãi thành sáo ngữ, mà không gây được ảnh hưởng nào vào cuộc sống là vì  chỉ dừng lại ở bình diện lý trí hiện tượng , mà không đi sâu vào phần tiềm thức, vô thức đến tận cõi uyên nguyên như Cơ Cấu Tiên Rồng của Việt tộc, nên không hiện thực được vào thể chế, thói tục…do đó xã hội  Âu Châu trên hơn hai ngàn năm vẫn có nô lệ, tư sản tuyệt đối và óc kỳ thị, tức là không có một sự bình đẳng chân thực. Từ đó, ta mới thấy, qua truyện Đầm Nhất Dạ, xã hội Việt cổ xưa đã Xoá Bỏ Mâu Thuẫn Giai Cấp, thực hiện Nam Nữ Bình Quyền sớm nhất, với Minh Triết Rồng Tiên đi vào hiện thực.

Truyện Phù Đổng Thiên Vương

     Đời Hùng Vương thứ ba, thiên hạ thái bình, dân vật đầy đủ. Ân Vương lấy sự thiếu lễ triều cống, giả đi tuần thú để xâm chiếm nước ta.

     Hùng Vương nghe được mới triệu quần thần hỏi về kế hoạch đánh hay giữ. Có nhà phương sĩ dâng lời nói rằng:

     - Không gì bằng cầu Long Quân để nhờ ơn phù.

     Hùng Vương nghe theo mới lập đàn trai giới, đặt vàng bạc lụa là ở trên bàn, đốt hương cầu tế ba ngày thì trời cảm sấm mưa, thoát thấy một ông già cao hơn sáu thước mặt vuông, bụng lớn, râu mày bạc phơ, ngồi ở ngã ba mà cười nói ca múa; người ta trông thấy ngỡ là phi thường mới tâu với vua. Vua thân hành ra bái yết, rước vào trong đàn; ông già không ăn uống, không nói năng gì cả.

     Hùng Vương đến trước hỏi rằng:

     - Nay binh nhà Ân sắp sang đánh, hơn thua ra sao, nếu có kiến thức gì xin bầy cáo cho: Ông già giây lát mở thẻ ra bói, thưa với vua rằng:

     - Sau ba năm giặc mới qua đánh.

     Vua lại hỏi kế hoạch để đánh giặc, ông già đáp rằng:

     - Nếu có giặc đến thì phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ tốt để cho nước có uy thế, rồi tìm khắp thiên hạ có ai dẹp được giặc thì phong cho tước ấp, hễ được người ấy thì dẹp được giặc ngay.

     Nói đoạn bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Vừa đúng ba năm, binh biến báo cấp có quân Ân sang, Hùng Vương y theo lời nói của lão nhân, sai sứ đi khắp thiên hạ để tìm người dẹp giặc. Sứ giả đến làng Phù Đổng, quận Vũ Ninh, trong làng có một ông nhà giầu đã hơn sáu mươi tuổi mới sinh được người con trai ba tuổi không biết nói, chỉ nằm ngửa không ngồi dậy được. Bà mẹ nghe sứ giả đến, nói bỡn với con rằng:

     -Sinh được thằng này thì chỉ biết ăn uống chớ không biết đánh giặc để lĩnh thưởng của triều đình mà đền ơn bú mớm.

     Đứa trẻ nghe mẹ, thình lình nói lên rằng:

     - Mẹ hãy gọi sứ giả vào đây, con hỏi thử xem là việc gì.

     Bà mẹ cả kinh, mừng rỡ bảo với xóm làng:

     - Con tôi đã biết nói.

     Xóm giềng cũng lấy làm lạ mời rước sứ giả về nhà.

     Sứ giả hỏi rằng:

     - Mày là đứa trẻ mới biết nói mà bảo kêu ta đến làm gì?

     Đứa trẻ mới ngồi dậy bảo sứ giả rằng:

     - Ngài lập tức về tâu với vua đúc cho ta con ngựa sắt cao mười tám thước, một gươm sắt bẩy thước, một cái nón sắt, trẻ này cỡi ngựa, đội nón đi đánh giặc cho, giặc sẽ phải tan tành, nhà vua việc gì mà lo.

     Sứ giả về trình cáo với vua. Vua mừng bảo rằng:

       -Thế thì ta không lo gì vậy.

     Quân thần đều tâu:

     - Một người đánh giặc làm sao phá nổi?

     Vua nói:

                     - Đó là Long Quân giúp ta, lời lão nhân đã nói trước không   phải là lời nói không, các ngươi không nên ngờ.

     Rồi sai người tìm sắt cho được năm mươi cân luyện thành ngựa sắt, gươm sắt và non sắt; Sứ giả đem tất cả đến; bà mẹ thấy thế cả kinh, sợ họa đến mình, lo sợ hỏi con

     Đứa trẻ cả cười nói rằng:

     - Mẹ đem cơm thật nhiều cho con ăn, con đi đánh giặc, mẹ đừng sợ.

     Rồi đứa bé lớn lên rất mau, áo cơm hàng ngày bà mẹ cung cấp không đủ, hàng xóm nấu thêm cơm, làm thịt trâu, rượu, bánh, trái, thế mà đứa bé vẫn ăn không no bụng; vải lụa gấm vóc mặc chẳng kín hình, đều phải lấy thêm hoa cây hoa lau mà che nữa.

     Đến khi quân nha Ân kéo đến Trâu Sơn, đứa bé mới duỗi chân đứng dậy, mình cao mười hai trượng, nghểnh mũi mà nhảy, nhảy mũi hơn muời tiếng rồi tuốt gươm nói lớn lên rằng:

     -Ta là Thiên Tướng đây!

     Bèn đội nón nhảy lên ngựa, ngựa phi như bay, múa gươm xông đến trước, quan quân theo sau đến sát lũy giặc, dàn trận dưới núi Trâu Sơn. Quân Ân cả sợ, trở giáo chạy lui, Ân Vương chết ở Trâu Sơn, còn dư đảng thì sụp lạy và hô rằng:

     - Thiên Tướng, chúng tôi hết thẩy xin đầu hàng.

     Đứa trẻ đi đến núi Sóc Sơn mới cởi áo mặc rồi cỡi ngựa bay lên trời, chỉ lưu dấu chân trên đá dưới chân núi mà thôi.

     Hùng Vương nhớ đến công lao, không biết lấy gì đền báo mới tôn làm Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ ở vườn làng nhà ấy, cho ruộng một trăm khoảnh để làm lễ hưởng tế xuân thu.

     Đời nhà Ân hai mươi bảy vua, trải qua sáu trăm bốn mươi năm, không dám đem binh sang đánh nữa.

     Man Di bốn phương nghe được như vậy đều thần phục, về phụ với Vương. Sau đó Lý Thái Tổ phong làm Xung Thần Vương, lập miếu tại làng Phù Đổng (nay huyện Tiên Du) bên chùa Kiến Phúc, tạc tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu đều có tế lễ vậy.

Ý  Nghĩa

     Hình ảnh những anh hùng cứu nước là những nét son nổi bật trong lịch sử dân tộc. Nhưng huyền sử Phù Đổng Thiên Vương đặt nền tảng trên tinh thần vô công, vô danh lại là một  nét son nổi bật hơn về Tâm Đạo. Hình ảnh người chiến sĩ làng Phù Đổng cho ta thấy cái đẹp của tấm lòng vô cầu. Quên công danh là một đức lớn của bậc chân nhân, con người phải có trình độ tu tâm sâu sắc mới xóa bỏ được cái ham mê công danh. Đạo Lý Tiên Rồng đã hun đúc được tinh thần tự chủ vững mạnh, đặt giá trị ở nơi ý nghĩa cao đẹp của việc xả thân, xả kỷ. Bài học Huyền Sử Phù Đổng Thiên Vương là bài học của bậc chí thiện. Bậc chí thiện không chỉ quên thân mình hy sinh cho người, không chỉ chiến thắng người về võ lực. Bậc chí thiện lành còn là cái tâm xả bỏ, người chí thiện quên cả công mình. Nói cách khác, người hữu vi chú trọng đến tất cả những gì có lợi cho bản thân họ và các giá trị của cuộc sống vật thể để sống chết cho nó. Ngược lại, người vô vi thấy đời phù du, nên không muốn tích cực xây dựng gì ở cõi tạm bợ này. Do đó đứng trước cảnh nước mất nhà tan, người hữu vi cũng có thể tham dự việc đánh giặc, nhưng nhất định sẽ đòi phần thưởng cho công khó. Người vô vi thì có thưởng công cách mấy cũng không làm. Thế nhưng, Phù Đổng Thiên Vương đã đánh giặc cứu nước, và giặc tan rồi, bỏ tất cả mà đi…Nghĩa cử ấy là AN VI. An Vi là vẫn làm việc đời với tất cả ý thức, bổn phận và tình thương, nhưng làm xong rồi không nhớ đến công của mình nữa. Người An Vi hành động với Tấm Lòng Hư Vô. Nên gọi là tâm vô cầu, tâm vô nhiễm. Lý tưởng An Vi trong Huyền Sử Phù Đổng Thiên Vương là tấm gương sáng soi chân đạo Tiên Rồng ở một bình diện khác. Tiên Rồng là Sắc Sắc Không Không. Thế thiên hành đạo là đi vào cõi Sắc. Xả bỏ công danh là tham dự cảnh giới Không. Phù Đổng Thiên Vương là biểu tượng của con người liễu ngộ đạo lý sắc không, là mẫu mực sáng chói của Nhân cách con người trong ý thức hai chiều Hữu Vô, là Nghĩa Hành của bậc Thiện Trí Thức An Vi.

Truyện Bánh Dầy Bánh Chưng

     Sau khi vua Hùng phá giặc Ân rồi, trong nước thái bình rồi mới lo việc truyền ngôi cho con, hội hai mươi vị công tử lại mà bảo rằng:

     Ta muốn truyền ngôi cho đứa nào làm vừa lòng ta là đến kỳ cuối năm biết đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương để làm trọn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho.

     Các công tử lo đi tìm các vị trân kỳ, hoặc săn bắn, chài lưới, hoặc mua ở chỗ, vụ được nhiều của ngon vật lạ không biết bao nhiêu mà kể. Duy có công tử thứ chín tên là Lang Liêu, bà mẹ hàn vi đã lâm bệnh mà quá cố rồi, tả hữu lại ít người nên khó bề toan tính, ngày đêm thao thức ăn ngủ không yên.

     Hốt nhiên ông mộng thấy thần nhân bảo rằng:

     -Trong trời đất không có vật gì quí bằng gạo, vì gạo là của để nuôi dân, người ta ăn mãi không chán, không có vật gì dùng trước được; nếu lấy gạo nếp hoặc gói thành hình tròn để tượng trời, hoặc gói thành hình vuông để tượng đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý cái ơn trời đất phát dục vạn vật, như thế thì lòng cha sẽ vui, tôn vị chắc được.

     Lang Liêu kinh sợ tỉnh dậy, mừng rằng: “Thần minh giúp ta, ta nên bắt chước theo mà làm”. Lang Liêu mới lựa hột nếp nào trắng tinh, hoàn toàn không sứt mẻ đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu đi cho chín, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho thực nhuyễn, nặn làm hình tròn để tượng trưng hình trời, gọi là bánh dầy.

     Đúng kỳ, Vương hội các con lại trưng bầy phẩm vật; các con đem dâng không thiếu thức gì, duy chỉ có Lang Liêu đem bánh tròn, bánh vuông đến dâng. Hùng Vương lấy làm lạ hỏi Lang Liêu, Lang Liêu trình bầy như lời thần nhân mách bảo. Vương thân hành nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng ăn không chán, phẩm vật của các công tử khác không sao hơn được. Vương khen ngợi giây lát, rồi cho Lang Liêu được giải nhất.

     Năm hết, Vương dùng bánh ấy dâng lên Tiên Miếu và cung phụng cha mẹ, thiên hạ bắt chước truyền đến bây giờ, lấy tên Lang Liêu để gọi là Tiết Liệu.

     Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi anh em đều giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, cứ thủ núi sông để làm hiếm cố.

     Về sau, họ hàng tranh nhau làm trưởng, mỗi người dựng mộc sách để che kín bởi vậy gọi là sách, là trại, là phường khởi thủy từ đấy vậy.

Ý  Nghĩa

     Huyền sử Bánh Dầy Bánh Chưng lồng vào rõ rệt nhất những nét chính của Việt Đạo. Vua Hùng Vương đặt việc truyền ngôi báu dựa trên Đạo Thờ Cúng Tổ Tiên. Tục thờ tổ tiên từ tục lệ thờ Người của tinh thần Nhân Chủ cùng cực, vì thế không gì quan trọng bằng việc làm đẹp lòng tiên tổ thì nhận được ngôi vua. Điều này chứng tỏ đạo lý dân tộc đã sớm nhận ra cái nền tảng của thanh bình hạnh phúc nằm trong chữ Đức nhiều hơn chữ tài. Hùng Vương không đặt điều kiện tranh tài về võ lực hay khả năng để cai trị một nước. Nhưng Vua Hùng chỉ quan tâm đến phẩm hạnh con người qua đạo hiếu. Con người hiểu đạo trời đất để sống, để hành thiện dù bộc lộ trong miếng ăn đơn giản tầm thường cũng có giá trị bậc nhất. Lễ mọn nhưng ý nghĩa của sự nhận thức là căn bản, trời tròn, đất vuông, con người lo sao được Vuông Tròn. Đó là sự sắp xếp của Ý Thức Nhân Chủ trong Mối  Tương Quan với Trời Đất  qua Lễ Gia Tiên - điều căn bản nhất để chọn lựa. Lo cho được có cái tròn đầy viên mãn của thiên đạo, lo cho không bỏ quên cái góc cạnh vuông sinh hoạt trong cuộc sống thiết thực hàng ngày, làm sao vẫn có thiên lý trong sinh hoạt muôn vẻ của nhân sinh này, thì cuộc sống mới trọn  vẹn. Cuộc sống có tròn của thiên lý trời, mà cũng có cái vuông của ý đạo ở đất. Hay nói cách khác, đời phải lồng vào đạo để đời có tiếng gọi siêu linh, có những giây phút thăng hoa về miền vĩnh cửu. Cho nên, dâng bánh vuông, với bánh tròn, Lang Liêu đã nói lên ý thức về  một nền Nhân Bản Toàn Diện, cho nên Đạo mới không xa Đời. Ngưòi vững đạo lý như Lang Liêu mới xứng đáng cai trị muôn dân, giúp đỡ dân trên đường thực hiện kiếp sống chân thực của con người: Tròn và Vuông. Người nắm được đức Tròn Vuông, Chân Lý Rồng Tiên Tương Hợp, của tổ tiên truyền lại, mới hóa giải được cái mâu thuẫn muôn đời nơi vũ trụ, nhân sinh. Người cai trị đời bằng đạo lý của trời. Và, vua là người có tâm tư cảm được đạo lý trời đất, làm vua cũng chỉ là thực hiện đạo lý mà thôi.

     Qua ý nghĩa trên, Huyền Sử Bánh Dầy Bánh Chưng đã nêu lên rõ rệt lý tưởng của bậc thánh vương: Trong thì là Minh Triết An Vi, ngoài là kinh bang tế thế. Và đẹp đẽ thay, lý tưởng của bậc Triết Vương ấy được xét ngay trên việc cụ thể như miếng ăn, như việc thờ cúng tổ tiên: Bước Tu Thân là đầu mối cho tất cả, là bảo chứng cho các giá trị và công nghiệp lớn lao.

Truyện Kim Qui

     An Dương Vương nước Âu Lạc là người ở Ba Thục, họ Thục, tên Phán, nhân việc tiên tổ cầu hôn với con gái của Hùng Vương tên là Mỵ Nương không được nên mới sinh ra hàm oán; phần muốn hoàn thành ý chí của Tổ Tiên nên cử binh đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải hiệu Âu Lạc mà đắp thành ở đất Việt Thường; thành đắp xong lại sập. Vương mới lập đàn, trai giới cầu đảo ba tháng.

     Ngày mồng bảy tháng ba bỗng thấy một ông già theo phương Tây mà đến thẳng cửa thành, vừa đi vừa than rằng:

     - Xây đắp thành này thì bao giờ cho xong!

     Vương rước vào trên điện, lạy và khóc rằng:

     - Ta đắp thành này đã xong lại đổ, hao tổn công sức rồi mà không thành là tại làm sao?

     Ông già thưa:

     - Ngày nào có sứ giả Thanh Giang cùng đắp với Vương thì thành ấy mới xong.

     Nói đoạn cáo từ.

     Rạng ngày, Vương đứng ở cửa Đông trông ra thì thấy một con rùa Vàng theo hướng Đông mà bơi lại; rùa đứng trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là Thanh Giang sứ giả, biết rõ lẽ trời đất, âm dương, quỉ thần.

     Vương mừng mà nói rằng:

     Điều đó ông già đã báo cho ta rồi.

     Bèn sai lấy kiệu dù rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi vì cớ gì mà thành không đắp được.

     Kim Qui nói:

     - Ở đây có linh khí núi sông, con Tiên Vương phụ vào để báo thù nước, lại có con gà trắng sống ngàn năm hóa làm yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu, trên núi có con quỉ, nguyên trước là một nhạc công chôn cất ở đây hóa ra quỉ. Ở bên có một cái quán để cho hành khách qua lại ngủ nhờ, chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một con gà trắng là dư khí của quỉ thần. Hễ có người khách nào qua lại đến đấy ngủ nhờ thì quỉ tinh hóa ra thiên hình vạn trạng mà giết hại rất nhiều. Bấy giờ ta nên bắt con gà trắng và đứa con gái của chủ quán giết đi thì tinh quái sẽ hết.

     Nhưng chắc là nó lại hóa ra yêu thư, sai chim cú ngậm thư bay lên cây chiên đàn, tâu với Thượng Đế xin phá thành ấy đi. Thần đây xin cắn cho rơi cái thư,Vương lập tức thu lấy tất nhiên thành đắp mới xong.

     Kim Qui bảo Vương giả làm khách đi đường xin ngủ nhờ trong quán. Vương để Kim Qui ở trên ngưỡng cửa.

     Ngộ Không nói:

     - Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người, Lang Quân không nên ở lại, vả nay trời cũng chưa tối, nên mau đi đến chỗ khác để tránh họa.

     Vương cười rằng:

     - Sinh tử tại mệnh, quỉ mị mà làm gì, ta không sợ.

     Mới ngủ lại đó.

     Trong đêm có tinh đến kêu ngoài rằng:

     - Ai ở trong nhà này phải mở cửa ra mau.

     Kim Qui mắng rằng:

     - Cửa đóng thì mày làm gì tao nào?

     Quỉ tinh phóng hóa ra vạn trạng, quỉ dị đủ phương để khủng bố nhưng rốt cuộc cũng chẳng được vào nhà.

     Đến lúc gà gáy, các quỉ thần đều chạy tan, Kim Qui khiến Vương đuổi theo đến núi Thất Diệu, quỉ tinh thu về hết cả, Vương quay trở lại quán trọ.

     Sáng ngày, chủ quán đem người đông đến để chôn thi thể của khách ngủ lại hôm qua, thấy Vương ngồi đó, nói cười như không có gì cả. Quán chủ đến, vái lậy mà nói rằng:

     - Lang quân được thế tức là Thánh nhân rồi, xin ban linh thuật để cứu sinh linh.

     Vương bảo:

     - Hãy giết con gà trắng của mày mà tế thì quỉ thần tan hết.

     Ngộ Không giết con gà trắng thì đứa con gái cứ tự nhiên cũng nhào xuống chết. Vương lập tức bảo người đào núi Thất Diệu, được một nhạc khí đời cổ và một hài cốt, sai đốt trộn thành tro mà quẳng ra sông.

     Lúc bấy giờ trời đã gần chiều, Vương cùng Kim Qui leo lên núi Việt Thường, quỉ tinh đã hóa ra chim si hưu ngậm thư bay lên cây chiên đàn.

     Kim Qui bèn hóa ra một con chuột mà bò theo sau lưng cắn chân chim; thư rớt xuống đất; Vương lập tức thu lấy thì sâu đã ăn hết hơn một nửa rồi.

     Vương gọi là thành Sát Quỉ Côn Lôn bởi vì thành rất cao lớn.

     Kim Qui ở lại với Vương ba năm rồi từ biệt về; Vương bảo rằng:

     - Nhờ ơn của người, thành đã vững chắc, nếu như ở việc ngoài thì lấy gì mà chống giữ?

     Kim Qui thưa:

     - Quốc độ tu đoản, xã tắc an nguÿ là vận của trời, nhưng người biết tu đức thì có thể lâu dài được, Vương đã có lòng ước nguyện thì tôi đâu dám tiếc.

     Mới cởi cái móng chân đưa cho Vương và nói:

     - Thản hoặc giặc có đến thì dùng móng này làm máy nỏ, đem ra mà đánh giặc thì không có gì đáng lo.

     Nói đoạn trở về Đông Hải.

     Vương khiến bầy tôi là Cao Lỗ làm nỏ, lấy móng làm máy, hiệu là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ, sau Triệu Đà đem quân sang xâm lăng, cùng Vương giao chiến; Vương dùng thần nỏ mà bắn, quân Triệu Đà thua chạy, đóng đồn ở núi Trâu Sơn, đối lũy với Vương. Triệu Đà biết Vương có nỏ thần nên không dám tái chiếm mới khiến sứ thỉnh hòa.                 Vương mừng cắt từ sông Tiểu Giang trở về phương Bắc cho Triệu Đà cai trị, trở về phương Nam thì do Vương cai trị (nay là sông Nguyệt Đức).

     Chưa được bao lâu, Đà sai con vào túc vệ cầu hôn với con gái Vương là Mỵ Châu; Vương bất ý không ngờ gian kế của cha con Triệu Đà; Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem, rồi lén làm nỏ khác đổi lấy vuốt rùa giấu đi, nói dối với Mỵ Châu là trở về Bắc thăm cha mẹ.

     Nhân đó nói rằng:

     - Tình phu phụ thì ta không nỡ quên, mà ơn phụ tử cũng không nên bỏ, nay ta về thăm cha mẹ mà vạn nhất hai nước bất hòa, Nam Bắc cách biệt, ta trở lại tìm nàng thì nàng lấy vật gì mà làm dấu cho ta biết.

     Mỵ Châu nói:

     - Thiếp là nhi nữ gặp phải bước phân ly thực khó thắng được tình cảm; thiếp có chiếc nệm gấm lông ngỗng thường mang trên người, đến lúc ấy thì thiếp lấy lông ngỗng mà rải ở các ngã ba để chỉ cho chàng biết chỗ thiếp ở đâu mà đến cứu.

     Trọng Thủy từ tạ, cắp nỏ thần mà về báo cáo với Triệu Đà; Đà được nỏ rất mừng liền phát binh đánh Vương, Vương không lo phòng bị, mải đánh cờ vậy, cười rằng:

     -Đà không sợ nỏ thần của ta sao?

     Đến lúc quân Triệu Đà tiến bức, Vương mới xách nỏ thần ra bắn, thì thần cơ đã mất, quân chạy toán loạn.

     Vương chở Mỵ Châu lên ngựa chạy về hướng Nam, đến bờ biển, cùng đường, không có thuyền để sang ngang,  Vương hét lớn lên rằng:

     - Trời để mất ta hay sao? Giang sứ đâu mau đến cứu ta.

     Kim Qui nổi lên mặt nước mắng rằng:

     - Người ở sau lưng ngươi là giặc đó, hãy giết nó ta mới cứu.

     Vương bèn tuốt gươm chém Mỵ Châu.

     Mỵ Châu ngửa mặt lên trời mà cầu xin:

     - Thiếp là con gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại đến phụ thân thời chết hóa thành bụi trần, bằng như một niềm trung tín, bị người phỉnh phờ thời hóa làm ngọc châu để rửa cái thù nhục nhã này.

     Mỵ Châu chết ở bờ biển, máu chảy trên nước, hào hến ăn vào lòng hóa thành minh châu.

     Vương cầm sừng văn tê bẩy tấc, Kim Quy rẽ nước dẫn Vương vào biển, đời truyền tại núi Mộ Dạ, làng Cao Xá, Châu Diễn tức  là chỗ đó vậy.

     Quân Triệu Đà đến chỗ ấy không thấy gì hết, chỉ thấy tử thi của Mỵ Châu; Trọng Thủy ôm thây nàng mà về chôn ở Loa Thành, hóa làm ngọc thạch. Trọng Thủy thương cảm vô cùng, thấy lại những chỗ trang điểm hay tắm gội của Mỵ Châu, tưởng nhớ đến hình dung nàng bèn nhẩy xuống giếng mà chết. Sau này, ai được Ngọc Châu ở Đông Hải, càng múc nước giếng ấy mà rửa thì sắc ngọc càng thêm rực rỡ. Nhân tránh tên Mỵ Châu nên gọi ngọc châu là Đại Cưu, Tiểu Cưu vậy.

Ý  Nghĩa

     Loa là biểu tượng tổng hợp cuả hai đường lực ngang dọc, đúc kết làm thành một đường mới không ngang không dọc nhưng là xoáy ốc. Sự đúc kết của ngang dọc là vòng xoáy ốc vươn lên. Hai đường ngang dọc tuy trái ngược nhưng phải hòa hợp trong thế quân bình động đích đi lên, mỗi lần lập lại một vòng mới là đến gần trung tâm hơn.

     Hình loa hay hình xoáy ốc là tiêu biểu cao nhất về con người. Vì Con Người là gì nếu không là sự cấu thành bởi hai lực ngược chiều, là sự Nối Kết của Hai Chiều Kích Tâm Linh và Vật Thể. Nhưng vạn vật nhân sinh không chỉ là một nét gấp cứng đọng chết khô của hai chiều tương phản. Mỗi một vòng xoáy ốc vừa lập lại những nét căn cơ mà đồng thời lại mới mẻ khác xưa, cho nên mỗi vòng xoáy ốc là mỗi vòng tiến hóa. Vì tiến hóa nên đến dần vào trung tâm.

Việt Đạo xây Loa Thành ở đây nhằm vào ý nghĩa đạo lý của những con người biết vươn lên, vượt qua từ những cái bé nhỏ để tiến lên, mãi trên con đường tiến hóa, một cuộc tiến hóa không biên cương, không bờ bến. Cuộc tiến xoáy ốc của tâm thức con người là sự sáng tạo nhiệm mầu, tâm tư bay bổng nơi chốn viên mãn tròn đầy, tham dự dòng vận hành của vũ trụ không ngừng nghỉ sự sống vĩnh cửu. Vì thế xây Loa Thành – Thành trì chống đỡ những đường lực phản động, những đường lực lạc chiều tiến hóa của nền Nhân Bản Tâm Linh – dĩ nhiên là khó, xây hoài không xong, xây xong lại sụp đổ. Truyện Loa Thành, An Dương Vương phải giết được con gà trắng phía Tây và cầu đảo thần Thanh Giang ở phương Đông tới thì mới yên. Trắng là chỉ phương Tây, gà là cung Dậu cũng phương Tây. Minh Triết đến từ Phương Đông. Thần Kim Qui lại từ phương Đông để mang minh triết “Tu đức giữ Đạo” cho An Dương Vương. Xã tắc an nguy là vận trời, nhưng người tu đức có thể dài lâu được. Đây là bản tóm con đường Nhân Chủ của Việt Đạo. Bài tu đức ở trong huyền sử này là tu Loa Đức. Tu theo loa đức, là thực hành lý tưởng Đúc Kết Hai Chiều Ngang Dọc trong cuộc Tiến Hóa Xoáy Ốc. Đi vào cụ thể, tu theo loa đức trước tiên là phải Tu Dưỡng Thân Tâm, tu đức là tu thân, là giữ thân tâm an định, để giúp thần dân an định để rồi cùng với trời đất tham dự bài tình ca bất tận của Tâm Linh Siêu Việt. Nhưng An Dương Vương không tu theo Loa Đức, mà là ỷ lại vào ngoại lực của nỏ thần, nên để nước mất nhà tan, hồn xiêu xác lạc.

                                                    Tổng Luận Kinh Hùng

     Những huyền sử trên trích trong “Lĩnh Nam Trích Quái” do Trần Thế Pháp thâu thập. Sách tuy mới từ thế kỷ 15, nhưng cốt truyện thì đã có từ lâu đời trước như được chứng tỏ nơi các đền điện, đồ cổ, có tính cách độc lập trước khi chịu ảnh hưởng của Tàu. Những truyện kể trên hầu hết xoay quanh thời Hùng Vương. Nhưng như đã trình bầy ở trên, tìm về huyền sử là tìm về tâm tình, linh hồn của văn hóa qua những mảnh vụn lịch sử. Cho nên, truyện huyền sử chở cả linh hồn dân tộc, là kết tinh những đau thương và trí tuệ của cuộc tiến hóa về miền Tâm linh vượt không thời. Do đó, huyền sử dân tộc chở nổi cả nguồn sống và ánh sáng của nhân tộc. Huyền Sử Việt không phải chỉ có ý nghĩa trong phạm trù dân tộc. Huyền Sử Việt đã vượt cả bình diện của dân để đi vào bình diện của Nhân tính đại đồng. Huyền sử Việt tràn đầy nét hàng dọc tâm linh, nên nó xứng đáng là Kinh, đại biểu cho chân lý hướng dẫn con người trên con đường đi tìm bản thể của chính mình. Huyền Sử Việt do đó có thể gọi là Kinh Hùng đúng nghĩa của nó.

     Xuyên qua những Huyền Sử tiêu biểu trên, ta thấy những nét nổi bật trong Kinh Hùng là: Lưỡng-Nhất Tính, Nhân Chủ, Tâm Linh, và An Vi.

1- Lưỡng-Nhất Tính

     Theo truyền thuyết dân tộc ta là Con Rồng Cháu Tiên. Hai chữ Tiên Rồng là hai biểu tượng chính làm nên con người. Con người là một vật thể lưỡng tính như vũ trụ cũng là hai chiều sinh hóa mà thôi. Tiên Rồng là một ý thức về Nét-Gấp-Đôi về Tính Thể. Ta thử nhìn trên thế giới dân tộc nào cũng chọn vật biểu cho họ, nhưng tất cả đều chọn một vật biểu duy nhất:

            Ấn Độ vật biểu là con voi

            Nước Pháp vật biểu là con gà

            Nước Anh vật biểu là con sư tử

            Nước Tầu vật biểu là con hổ sau đổi là rồng

            Nước Mỹ vật biểu là con ó

     Riêng nước Việt chọn vật biểu kép Tiên và Rồng. Nét đặc trưng của Cặp Đôi Uyên Nguyên Tiên Rồng chỉ duy nhất có trong văn hóa Việt, vì quá lâu đời nên nó chìm xuống vùng tiềm thức âm u, nên con cháu ngày nay không còn nhìn ra cái Nét-Gấp-Đôi kỳ diệu nữa.

2-  Nhân Chủ Tính

     Nét trổi vượt thứ hai của Kinh Hùng là Nhân Chủ Tính. Nhân chủ cũng là nhân bản nhưng vì có nhiều thuyết nhân bản ở khắp nơi và chưa thực sự khai mở được hết Tính Thể của con người toàn diện, nên An Vi gọi là Nhân Chủ để phân biệt với các triết thuyết nhân bản khác. Truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh tuy rất đơn sơ nhưng nhằm chứa đựng nội dung phong phú. Vua Hùng diệt Ngư Tinh, Hồ Tinh tức là sự tiêu diệt những lý thuyết hoang đường, mù quáng, làm hại cho con người.

     Trước khi xây căn Nhà Nhân Chủ Tâm Linh cho con người có nơi An Cư Lạc Đạo, vua Hùng phải khai quang để dọn đường cho người về làm chủ thái thất của mình. Con người thường để sự phiến diện che lấp cái nhìn toàn thể, tiểu dị che lấp đại đồng, cuồng tín che lấp chân tri.

     Với thuyết Nhân Chủ, Hùng Vương đã đặt giá trị Con Người Toàn Diện Hai Chiều Kích làm trọng tâm giá trị. Trong truyện Bánh Dầy Bánh Chưng, Tiết Liệu dù bần cùng nghèo khó, nhưng nắm được lẽ Đạo Vuông Tròn, là được truyền ngôi trị nước. Chử Đồng Tử còn cùng túng hơn, không có lấy nổi một cái khố che thân, vậy mà vẫn sánh duyên được cùng công chúa Tiên Dung, còn giá trị Nhân Chủ  nào cao hơn xuyên qua sự bình đẳng tuyệt đối, coi nhẹ vật chất, đề cao phẩm giá con Người trong truyện.

3-Tâm Linh

     Các nhà cổ nhân học đã nhận ra hai biến cố làm cho con vượn người trở nên người đích thực, con người khôn sáng (homo-sapiens) đứng biệt lập ra khỏi cái khối vượn người đã xuất hiện cách đây nhiều triệu năm, và cứ tiến dần, tiến dần, tiến dần cho đến lúc cuối cùng cách đây lối trăm ngàn năm thì con người khôn sáng mới tách ra khỏi khối đó. Hai yếu tố kèm theo biến cố quyết liệt này là Lao Tác và Tình Nhà.

     Với hiện tượng thứ nhất là lao tác, con người vượt ra khỏi tình trạng ăn sẵn là thời hái lượm, săn bắt. Vì thức ăn không có sẵn và nhất là thất thường nên con người thường phải mất quá nhiều thì giờ vào việc kiếm ăn, không còn thì giờ dành cho văn hóa, tinh thần. Với tình trạng cải thiện hơn, con người đi vào sản xuất đồ ăn để bớt lệ thuộc thiên nhiên, đủ để sống định cư, khỏi phải lang thang nay đây mai đó, lại còn dành được thì giờ rảnh rang để phát huy những năng lực của tinh thần: óc sáng tạo, phát minh ra đồ dùng, các phép chăn nuôi, làm nhà, dệt vải…để nâng cao đời sống con người, cũng như phát huy chiều kích mỹ thuật, văn hóa.

     Điểm thứ hai là tình nhà. Đây là một điểm quan trọng làm con người tách biệt khỏi đời sống thú vật. Nơi con thú không có tình nhà. Không cả tình mẫu tử. Nơi con vật tình mẫu tử rất yếu ớt, ngắn ngủi. Tuy con vật mẹ có bảo vệ đoàn con nhưng thuần cho sinh lý: Gà mẹ chăn con cho đến lúc con tự túc được thì nó có thể mổ con dễ dàng. Cá chuối chăn con cũng vậy, lớn lên con đủ sức tìm mồi mà không trốn khỏi mẹ thì bị mẹ nuốt. Con vật không có tình, nên không thể làm nên được gia đình. Trái lại, nơi con người tình người được kết thành tình gia tộc rồi lớn lên thành thị tộc, rồi dân tộc, tức mối sinh lý huyết thống được phát huy mãi lên thành mối tình nhân loại, vươn lên tới đợt Đại Ngã Tâm Linh có tính chất bao quát rất hiệu nghiệm, nhờ đó đã trở thành nền tảng cho sự tổ hợp xã hội. Đây là bước tiến về tinh thần hơn nữa: từ họ hàng huyết thống đi đến họ hàng thiêng liêng của nhân loại. Người Việt gọi nhau là đồng bào cũng từ huyền sử mang tình thân thương Con Rồng Cháu Tiên. Rồi đến cách gọi nhau bằng anh, chị, em, cô, dì, chú, bác, nội, ngoại… của người Việt là bước tiến của Văn Hóa Tài Bồi Tâm Linh : Coi mọi người là thân tộc, bốn biển một nhà. Cho nên Tâm linh là bước tiến của Tâm thức con người, mang đến đời sống An lành, Thái Hòa cho mọi cá nhân, dựa trên hai yếu tố lao tác và tình nhà. Hai yếu tố quyết định trên hun đúc Tâm linh con người qua từng trang Huyền Sử Việt. Tình thương gia đình trong truyện Trầu Cau, tình hy sinh cứu nước trong truyện Phù Đổng, mỹ tục thờ cúng tổ tiên qua đạo hiếu cùng là nặng lòng với một chữ Tình của nhân luân qua truyện Bánh Dầy Bánh Chưng. Tất cả bầu không khí trọng Tình Nghĩa con người trong Huyền Sử Việt là dựng xây bước thang tiến hóa của con người Nhân Chủ Tâm Linh. Cuộc sống từ đó sẽ không còn là cái sống để mà sống, nhưng sống để mà hóa, mà vươn lên tới đợt tâm linh thanh nhẹ, trút bỏ dần những cái chật hẹp của cá thể.

     Xây Loa Thành là biểu tượng cho đợt Sinh Hóa của Tâm Thức con người, con đường về với Tâm Linh Đại Đồng bao la vô tận hay là Tâm Bát Nhã.                                                     

4-  An  Vi

     Huyền sử Việt đưa đến một đích điểm là tạo một mẫu người có tinh thần hành động vì lòng yêu thương và bổn phận một cách vô vụ lợi. Thông thường, con người hành động vì cái lợi, hoặc bị bắt buộc. Cái làm ấy trói buộc nhân cách con người. Nhưng khi con người hành động vì ý thức cao cả của việc mình làm, với tinh thần xả bỏ khỏi cái lợi cho bản thân, con người đi vào thế giới của cõi tự do. Không có gì trói buộc, con người hăng say, tinh tấn trong niềm xả kỷ, xả công, xả danh và hưởng niềm vui của tự do, bao la, vô giới hạn. Ta có thể cảm nghiệm được niềm An vui này khi ta làm việc thiện lành.

     Truyện Phù Đổng Thiên Vương là biểu tượng của mẫu người An Vi trong Đạo Việt. Không còn hình ảnh nào đẹp hơn sau khi đánh giặc cứu nước, người chiến sĩ An Vi không màng công danh phú quí mà bay thẳng lên trời, hưởng Hạnh Phúc trên đỉnh An Lành.

                                                      Cơ Cấu  Huyền  Sử

     Tóm lại, phần trình bầy trên cho thấy là Huyền Sử Việt hay Kinh Hùng hội đủ các đặc tính Lưỡng Nhất, Nhân Chủ, Tâm Linh và An Vi. Những nét đặc trưng này có thể phác họa những sơ đồ nền tảng như tiêu chuẩn của Cơ Cấu luận (Structuralism) của Claude Lévi-Strauss, lý thuyết tân tiến nhất trong khoa Nhân văn ngày nay.

     Trước tiên ta hãy thử tìm hiểu Cơ Cấu là gì. Có thể nói Cơ Cấu là một cố gắng vượt qua những cái gì dị biệt, tạp đa để đạt tới những nét căn bản nhất của bất cứ một môn học nào. Nói đến nét căn bản có nghĩa là nói tới tổng quát. Nhưng không là một cách tổng quát dựa trên lý trí, sự tổng quát ở đây không nhằm mô tả sự kiện như khoa nhân chủng học trước kia đã làm, mà là cách tổng quát của Cơ Cấu, có nghĩa là của cái gì uyên nguyên hơn, tế vi hơn, vô hình hơn, do đó có sức bao quát hơn nhiều.

     Claude Lévi-Strauss đã nghiên cứu rất tỉ mỉ về thần thoại của nhiều loại dân, sau phân tích bên ngoài những dị biệt, ông tìm ra được rất nhiều nét giống nhau giữa các thần thoại. Căn cứ vào đó, ông kết luận rằng có một bản tính đồng nhiên cho mọi con người không phân biệt màu da, dòng máu…và do đó đi đến kết luận là có những luật bất biến chi phối mọi hoạt động của con người cổ cũng như kim. Luật này không ý thức được dễ dàng. Nó nằm ngầm dưới Vô thức, đưa ra những dạng thức bắt buộc Ý thức phải tuân theo. Vì thế chỉ cần tìm ra được cái Cơ Cấu Vô Thức nằm ngầm trong mọi định chế, thói tục là tìm ra Nguyên lý giải thích các thể chế, thói tục, thần thoại khác. Vì thế các nhà Cơ cấu học nuôi hy vọng có thể sắp xếp hàng trăm các nền văn hóa khác nhau bằng phương pháp đối chiếu, vào một mẫu số chung nào đó, vì văn hoá chỉ là những hình thái khác nhau của Cơ Cấu Tâm Thức của mỗi dân tộc. Theo Lévi-Strauss, Cơ Cấu Tâm Thức ấy được hình thành ngay từ bước sơ khai của mỗi dân tộc, và do đó, ông đề cao những huyền thoại của những trang đầu lich sử .

     Sau khi nghiên cứu vô số những huyền thoại kèm với thể chế thói tục…của nhiều sắc dân, chủng tộc thuộc nhiều nền văn hoá khác nhau bằng phương pháp mới của Cơ Cấu luận, Lévi-Strauss tóm tắt công trình nghiên cứu của mình bằng cách đưa ra 4 nét đặc trưng của Cơ Cấu như sau:

     - Cơ Cấu vượt  lý trí để sang bình diện tiềm thức

     - Cơ cấu chú ý dến những mối liên hệ giữa các hạn từ hơn là những hạn từ riêng rẽ

     - Cơ Cấu là đứng ở toàn cảnh nhìn vào từng phần và tìm cách giải nghĩa từng phần bằng cách đặt chúng trong tương quan với toàn bộ. Chính mối tương quan vô hình định tính các loại văn hoá. Thí dụ Lévi-Strauss phân tích 4 loại giao liên với những ký hiệu sau:

     = Giao Liên có tính chất Tương Liên

     + Giao Liên đảo lại

     + Giao Liên xây trên quyền lợi

     + Giao Liên chú ý đến nhiệm vụ

     - Điểm cuối cùng và nổi bật của Cơ Cấu là tìm ra những luật chung từ những mô hình, dạng thức mình đã phác hoạ để suy diễn và quy nạp.

Ta có thể hình dung sự kiến tạo ra dạng thức như hình sau:                                                      
                                          
     Trục ngang Th chỉ Thực thể hiện hình, các mũi tên hướng lên điểm D là dạng thức, còn trục từ D đến C là sự phản chiếu của Cơ Cấu.

     Dưới đây ta hãy thử xét nội dung của thần thoại nói chung, Huyền Sử Việt nói riêng qua từng tiêu chuẩn trên của Cơ Cấu Luận.

1- VƯỢT LÝ TRÍ ĐỂ ĐI SANG BÌNH DIỆN TIỀM THỨC

      Nếu tổ chức xã hội thuộc phạm vi rõ rệt với mục tiêu xác định, tất cả nổi lên trên mặt Ý thức dễ nhận biết, thì Cơ Cấu là cái gì nằm ngầm bên dưới tổ chức, ngoài tầm xét nghiệm của ý thức vì nó nằm tận miền Tiềm thức âm u, nên có phạm vi cũng rộng lớn hơn nhiều. Cơ cấu là mối liên hệ không hiện hình, là thế quân bình giữa những yếu tố trái ngược làm nên thực thể xã hội, và biểu lộ ra bằng những bậc thang giá trị, những ý tưởng của xã hội.

     Một cách tương tự, nếu Sử ký là sử hàng Ngang nhằm ghi lại những sự kiện, những biến cố có tính cách cá thể, chỉ xẩy ra một lần trong một không gian và thời gian nhất định, thì Huyền Sử là sử hàng Dọc, vượt lên bao trùm cả không thời, nhắm tới cái gì phổ quát, vượt lý trí phân minh, đi vào miền thâm sâu của Tiềm Thức, tiếp cận miền vi tế của Tâm Linh. Hay nói cách khác, nếu Sử ký là sử vòng Ngoài của những biến cố ngoại diện, thì Huyền Sử là sử vòng Trong của Tâm Linh dân tộc, là di bảo thiêng liêng, là giá trị tinh thần do bao đời kết tinh, là linh hồn của lịch sử.

     Như thế, nếu Tổ chức xã hội và Sử ký thuộc về lãnh vực Lý trí, Hiện tượng, thì trái lại, Cơ Cấu và Huyền sử vượt được sự giới hạn của lý trí để đi sang miền thâm sâu của Tiềm Thức, Tâm Linh.

2- CHÚ Ý TỚI LIÊN HỆ GIỮA CÁC HẠN TỪ HƠN LÀ HẠN TỪ RIÊNG  RẼ

     Khi tìm hiểu Văn Hoá theo lối xưa, nhà nghiên cứu chỉ trình bày, mô tả, hay cho dù phân tích hoặc tổng hợp những yếu tố riêng rẽ của Văn hóa, cũng chỉ dựa trên một số phạm vi chung của  Văn hoá như ngôn ngữ, kỹ thuật, khoa học, tín ngưỡng, tổ chức xã hội, kinh tế…Với đường lối nghiên cứu mới về Văn hóa của các nhà Cơ Cấu luận ngày nay, họ không dừng lại sự khảo sát nơi các hạn từ chung ấy. Cơ Cấu gia đi sâu hơn vào sự khám phá ra các Mối Liên Hệ hay là các Mối Tương Quan giữa các yếu tố Văn hóa để tìm ra những nét đặc trưng sâu xa biểu hiệu cho một nền văn hoá. Do đó, nhà Cơ Cấu nhấn mạnh đến  liều lượng và vị trí của mỗi yếu tố riêng của từng nền văn hóa trong mối liên hệ với toàn thể các hạn từ văn hóa chung.

     Ta thử áp dụng phương pháp trên vào lãnh vực Huyền Sử với truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên. Khi đối chiếu Vật biểu của các dân tộc khắp nơi trên thế giới, ta thấy tuy dân tộc nào cũng chọn vật biểu cho họ, nhưng tất cả chỉ chọn một vật biểu duy nhất, chỉ riêng nước Việt là chọn Vật biểu kép Tiên và Rồng, ta mới thấy nổi bật về Lưỡng-Nhất tính của quan niệm Triết Việt về vũ trụ, vạn vật, con người. Chỉ có một hạn từ làm vật biểu như các dân tộc khác, thì làm gì có việc tương quan, liên hệ, nghĩa là cái nhận thức Duy một chiều kích đã là bước khởi đầu. Triết Việt với Hai Hạn Từ Tiên Rồng là vật biểu, đã mặc nhiên nói lên tính Liên Hệ giữa hai hạn từ, tính Tương Quan hai chiều, mà sau nay Cơ Cấu luận chú  ý đến để định tính một nền văn hóa.Một điểm quan trọng khác, về mối liên hệ giữa các hạn từ nơi Huyền sử, như những trang sử đầu tiên của các giống dân thường có nhiều điểm chung giống nhau, như sự xuất hiện của các Thần, vơí những việc làm phi thường, lớn lao so với các con người bình thường.Và con người với tất cả những sinh hoạt của thuở sơ khai, còn nhiều quan hệ với thần thánh. Thế nhưng, áp dụng phương pháp Cơ Cấu, khảo sát về sự Tương Quan cùng liều lượng và vị trí của các yếu tố giữa Thần và Người, cũng như dùng phương pháp đối chiếu để so sánh nội dung khác nhau của Huyền thọai của các dân tộc, nhà Cơ Cấu sẽ tìm ra được những nét văn hóa đặc trưng tiêu biểu cho từng sắc dân.

     Thật thế, Thần và Người đã có khắp trong các nền Văn hóa xưa, Đông cũng như Tây. Nhưng mối Liên Hệ hay là Tương Quan giữa Thần và Người đã có sự khác biệt căn bản trong từng nền văn hóa. Huyền thoại của các dân tộc khác thường đặt nổi vai trò của Thần linh, trong khi Huyền thoại Việt lại đề cao vai trò của con Người. Nói cách khác, Huyền thoại  của các dân tộc khác chính là Thần Thoại, vì Thần Linh làm Chủ, thì ngược lại, Huyền thoại Việt chính là Nhân Thoại, vì Con Người được làm Chủ, nên Huyền thoại Việt có tính Nhân Chủ.

     Sự khác biệt trong mối Tương Quan giữa Thần và Người trong Huyền thoại  còn được minh chứng nơi hai hình ảnh: Một bên là hình ảnh bi thương của con người qua nhân vật Prométhée trong Thần Thoại Hi Lạp, chỉ vì tội ăn cắp một chút lửa trời để đem về soi cho trần thế bớt u tối, không may bị thần Zéus bắt gặp, mà bị trói trên núi Caucase, làm mồi cho chim kền kền moi móc gan ruột. Còn bên kia là hình ảnh oai phong của ông Bàn Cổ trong Nhân Thoại Việt Tộc “Bàn Cổ thủ xuất, thủy phán âm dương”. Ông Bàn Cổ đâu cần leo lên trời để ăn trộm chút lửa như Prométhée, vì chính ông xếp đặt trời đất theo ý mình, chính danh đinh phận cho vũ trụ, in dấu ấn của con Người Nhân Chủ Tâm Linh khắp bước khai thiên lập địa, chính ông còn làm ra sấm sét, thì chút lửa có đáng gì mà phải trở thành một kẻ tội đồ.

     Hai tính chất Lưỡng-Nhất và Nhân Chủ có một sự quan hệ mật thiết với nhau: Nhờ nhấn mạnh đến tương quan như Hai mà Một trong bản chất Rồng Tiên, nên Người cũng tương quan với Thần trong thế Tương Liên cao cả, hai chiều, để rồi Người cũng uy quyền mạnh mẽ, đầy tự tin như Thần. Với vai trò con người được đặt nổi ở đây, nền Nhân Thoại Việt trổi vượt hơn các Thần thoại khác về mặt Nhân Bản. Mà Nhân Bản là gì nếu không là chủ trương phục vụ hạnh phúc và quyền lợi của con Người hơn bất cứ điều nào khác. Và ở đâu hạnh phúc và quyền lợi con người được phục vụ hơn ở trong mảnh đất của Nhân hoàng, Nhân thoại, nơi mà Con Người nắm giữ vị trí của  Chủ Nhân ông? Như trong truyện “Ngư Tinh”, “Hồ tinh”, với vai trò “Chủ nhân ông”, vua Hùng đã diệt Ngư Tinh, Hồ tinh, có nghĩa là tiêu diệt những lý thuyết hoang đường, mù quáng, làm hại cho con người, khai quang tâm trạng bái vật sơ khai trước khi xây căn nhà Nhân Chủ Tâm Linh cho con Người có nơi An cư Lạc đạo. Truyện “Bánh Dầy Bánh Chưng” nói lên ý thức Trời Đất Giao thoa làm nên Con Người Đại Ngã. Ai mà nhận thức và hiện thực được, biểu thị bằng cách làm ra được bánh trời bánh đất, thì sẽ được phần thưởng vĩ đại là làm vua, mà ý nghĩa cụ thể là trở nên Nhân Chủ.

     Tóm lại, nếu Cơ Cấu luận nhấn mạnh đến Tương Quan, Liên Hệ giữa các hạn từ hơn là các hạn từ riêng rẽ, thì tương tự như thế, không đề cao một hạn từ riêng biệt, như Trời hoặc Đất, với Lưỡng-Nhất tính và Nhân Chủ tính, Huyền Sử Việt đặt nổi vai trò, địa vị con Người như là mối Tương Quan, Liên Hệ hay điểm Nối Kết, Hội Tụ giữa Trời và Đất, giữa Hũu hạn và Vô biên, giữa Cá Nhân nhỏ bé và Đại Ngã bao la.

3- ĐỨNG TỪ TOÀN CẢNH  NHÌN VÀO TỪNG PHẦN VÀ GIẢI NGHĨA TỪNG PHẦN BẰNG TƯƠNG QUAN TOÀN BỘ

     Chính từ quan điểm Lưỡng-Nhất tính và Nhân Chủ tính, nghĩa là từ nhận thức mối Tương Quan, Liên Hệ giữa các hạn từ mà không nhìn hạn từ theo cách riêng rẽ, nên Huyền Sử Việt mới có được cái nhìn Toàn Cảnh vượt lên sinh hoạt từng phần của đời sống và mới có khả năng giải thích đời sống từng phần bằng cách đặt tương quan của chúng với toàn bộ.

     Hay nói cách khác, nếu ta mới chỉ nhìn qua các tập hợp xã hội con người ở bất cứ nơi nào, thời nào trên thế giới, về nền tảng, không có nhiều khác biệt. Con người thời nào, nơi nào thường cũng có những nhu cầu căn bản như nhau: ăn ở, truyền sinh, thông cảm với tha nhân và được thông cảm, được biết đến, có tín ngưỡng…Nhưng nếu tìm hiểu sâu xa hơn, ta sẽ nhìn thấy sự khác biệt. Sự khác biệt đó chính là nơi những phương thức, cách thế mà các nhu cầu trên được đáp ứng, thoả mãn, qua mối tương quan vô hình định tính nội dung của nền văn hóa liên hệ.

     Như đã trình bày ở trên, ta thử chiếu giải 4 loại giao liên mà Claude Lévi-Strauss phân tích từ nghiên cứu các loại văn hoá và xã hội khác nhau trên những bình diện ngôn ngữ, thói tục, định chế, huyền thoại, để xét các tương quan của chúng trong việc định tính từng loại giao liên trong các sinh hoạt ấy. Trước tiên, hãy xét đến sự khác biệt trong cách xử dụng ngôn ngữ trong lối nói “Vô Ngã Hóa” của Tây Phương, khi với bất cứ ai, trên hay dưới, thân hay sơ, cũng chỉ có một lối xưng hô duy nhất vô sắc thái là “you”, “vous”,“il ”…với lối “Thân Tộc Hoá Xã Hội” của người Việt: gặp người xa lạ ta vẫn dùng những lối xưng hô thân mật như trong gia đình: thưa ông, thưa cô, thưa dì, chú, bác, anh, chị, em…

     Nới rộng phạm vi nghiên cứu từ lãnh vực ngôn ngữ qua các địa hạt văn hóa, xã hội, huyền sử…Có một liên hệ nào chăng của lối xưng hô “Vô Ngã Hóa”, vô sắc thái của Tây Phương với tính chất Trừu Tượng, Duy Lý, Duy Vật của Triết cổ điển mà phong trào Hiện sinh tố cáo là Phi Nhân Bản, vì chỉ thích hợp cho thế giới Sự Vật? Cũng như có một tương quan nào chăng, của lối xưng hô cạn cợt, lạnh lùng, thiếu thân tình với liên hệ hàng ngang Chủ-Nô trong xã hội Hi Lạp, La Mã, Tây Phương trước đây xem người Nô lệ như Đồ Vật để có thể trao đổi, mua bán, vì người Chủ có mọi Quyền, còn người Nô có mọi Nghĩa Vụ, phản ánh mối giao liên mà Lévi-Strauss đặt ở phần thấp nhất trong bảng sắp loại của ông, đó là:

     Giao liên xây trên quyền lợi

     Giao liên chú ý đến nhiệm vụ

     Thêm nữa, phải chăng, liên hệ Chủ-Nô trong xã hội Tây Phương xưa khởi nguồn từ thân phận bé nhỏ của con người Prométhée trước uy quyền của thần linh Zéus, mà hậu duệ của con người bé nhỏ ấy là giới Nô lệ, và kẻ kế thừa dòng máu Thần linh là giới Quý tộc, trưởng giả trong xã hội La-Hy xưa và giới Chủ nhân sau này trong xã hội Tây phương?

     Một cách tương tự, ta có thể nhìn được mối tương quan của lối xưng hô “Thân Tộc Hoá Xã Hội” vói nội dung Nhân Bản trong Văn Hoá Việt. Mối Tương Liên nền tảng từ một Bọc Mẹ Âu Cơ sau này biến thể thành nội dung Nhân Bản Toàn Diện của Việt Nho, một nền Triết Lý phù hợp với thế giới Con Người với mối Ngũ Luân (vợ chồng, cha con, vua tôi, anh em, bạn hữu) Đa Kích thay cho liên hệ Chủ-Nô một chiều của Tây phương. Đạo Thờ Người qua Lễ Gia Tiên cũng nói lên tính Nhân Bản trong quan hệ với người đã khuất. Từ cái nôi Văn Hóa Nhân Bản, xã hội Việt cổ xưa đã sớm có ý thức công chính trong sự tương xứng Quyền lợi và Nghĩa vụ, phản ánh qua mối giao liên đảo lại mà Lévi-Strauss đã đặt trị giá trên 2 loại giao liên dựa trên quyền lợi và nhiệm vụ của Tây phương.

     Nhưng Giao liên cao nhất theo Cơ Cấu luận là Tương Liên (Mutualité). Nếu hai giao liên thấp nhất dựa trên quyền lợi và nhiệm vụ bắt buộc nằm trọn vẹn nơi sự tính toán hơn thua, thì giao liên đảo lại, “có qua có lại”, đã có phần tình cảm kèm theo lý trí, nhưng vẫn chưa phải là mức độ cao cả trọn vẹn của Nhân tính. Tương Liên là mối giao liên Chân Thực nhất, hoàn toàn dựa trên Tình Nghĩa là nét đặc sắc nhất của xã hội loài người, làm nên con người Đại Ngã Tâm Linh. Thật vậy, chính yếu tố Tâm Linh làm cho con người trở nên Người đích thực, con người khôn sáng (homo-sapiens) đứng biệt lập ra khỏi cái khối vượn người đã xuất hiện cách đây nhiều triệu năm. Như đã trình bày ở trên, theo các nhà cổ nhân học, có hai yếu tố gây ra biến cố quyết liệt này là Lao Tác và Tình Nhà.

     Đặc biệt trong xã hội Lạc Việt, lao tác được tuyên dương đến cấp siêu hình như nét đặc trưng của con người Đại Ngã, khi Hòa Hợp với thiên nhiên theo nhu cầu để sinh tồn, khi Tham dự vào việc sinh dưỡng của vạn vật trong việc tạo hoa mầu trong đời sống Nông Nghiệp ổn định.

     Chính nơi Lao Tác của nếp sống Nông Nghiệp, Tình Nhà được trưởng dưỡng để rồi từ đó con người thực sự tách biệt khỏi đời sống động vật, để tiến mãi trên cấp độ của Tâm Linh. Như đã nói ở trên, nơi con thú không có tình nhà. Không cả tình mẫu tử hay nếu có thì cũng rất yếu ớt, ngắn ngủi. Trái lại, nơi con người, tình người được kết thành gia tộc, rồi lớn lên thành thị tộc, rồi dân tộc, nhân loại, vươn lên mãi tới đợt Đại Ngã Tâm Linh. Nghĩa là, khỏi đi từ họ hàng huyết thống, tình nghĩa con người đi đến tình họ hàng thiêng liêng của  Nhân loại.

     Thật thế, chính trong bầu khí sinh dưỡng Tâm Linh của Việt tộc đề cao Lao Tác và Tình Nhà mới hội đủ điều kiện của mối giao liên cao nhất theo Cơ Cấu luận là Tương Liên. Chính ở nơi đây, ta mới thấy xuất hiện những con Người Chân Thực, thấy việc đáng làm thì làm, không cần để ý đến danh vọng hay quyền lợi, làm vì mối Tương Liên, vì Tình Nhân Loại, vì Nghĩa Đồng Bào, vì Đại Cuộc, vì những lý do cao đẹp khiến người trở nên NGƯỜI hơn. Những tính toán nhỏ nhen, hơn thiệt, không xứng đáng với sứ mạng Làm Người cao cả sẽ không còn chỗ đứng nơi mảnh đất quê hương của Tâm Linh. Cũng chính nơi đây, mới có truyện Phù Đổng Thiên Vương  qua hình ảnh cao đẹp của Thánh Gióng, sau khi đánh giặc cứu nước, người Chiến Sĩ An Vi không màng công danh phú quý mà bay thẳng lên trời, hưởng hạnh phúc trên đỉnh An Lành.

     Chính vì ý thức An Vi, nên người Chiến Sĩ An Vi tiên phong trong  Đạo Việt đã có những bước “Nghĩa Hành”, làm vì Nghĩa, chứ không vì hào quang của lợi danh (lợi hành), lại càng không vì bị cưỡng ép của luật pháp hay sức  mạnh (cưỡng hành), nên còn gọi là An Hành. Nghĩa Hành hay An Hành là hành động với Ý thức cao cả của Trí tuệ và Tâm tư, trong mối Tương Liên với Đại Ngã và cùng là Đại Nghĩa. Triết lý sống cao đẹp của Người Chiến Sĩ vùng trời An Vi Việt Đạo chính là đỉnh cao trên hết của 4 cấp độ giao liên nền tảng mà Cơ Cấu luận, lý thuyết Nhân văn tân tiến nhất nhân loại ngày nay đã phác họa.

     Tóm lại, qua phần trình bày trên, xuyên qua 4 mối giao liên xây trên nhiệm vụ, quyền lợi, đảo lại và Tương Liên, ta thấy chính đỉnh cao của các mối giao liên xã hội mà Cơ Cấu luận phân tích, lại là Minh Triết An Vi của Việt tộc. Rồi trong sự nghiên cứu sâu xa, nguồn gốc bao dung, cái nôi Văn hóa của An Vi, chính lại là nơi Ý Nghĩa mà Huyền sử Con Rồng Cháu Tiên muốn gửi gấm bức Di Chúc Vạn Đai Thiên Thu: Hình ảnh “Bọc Trăm Trứng” diễn đạt một cách đúng đắn, trung thực nhất nguyên tắc “Đứng Từ Toàn Cảnh Nhìn Vào Từng Phần và Giải Thích Từng Phần Bằng Tương Quan Toàn Bộ” của Cơ cấu luận của Claude Lévi-Strauss. Thật vậy, từ cái nhìn toàn cảnh, tức từ “Bọc Trăm Trứng”, nhìn vào từng phần, tức “Trăm Trứng của Bọc”, và giải thích từng phần bằng tương quan toàn bộ, có nghĩa là Người Việt Lý Tưởng không xem nhau như những phần tử lẻ loi cô độc, để phải đấu tranh sinh tồn, giai cấp chủ nghĩa. Theo tinh thần Việt Đạo, mỗi người đều là một thành phần của toàn thể, là lân nhân với niềm cảm xúc gần gũi, thân cận trong ý nghĩa đều là cùng một bụng Mẹ Âu Cơ, cùng phải thân yêu đùm bọc nhau bằng tương quan toàn bộ là Tình Nghĩa ruột thịt, bằng tình “Đồng Bào” (cùng một bọc).

     Chính nhờ cái nhìn toàn cảnh trên, mà Cơ Cấu Văn Hoá Việt mới có mối Nhất Quán của các tính Lưỡng-Nhất, Nhân Chủ, Tâm Linh và An Vi, mới trùng hợp và hội đủ các tiêu chuẩn của Cơ Cấu Luận (Structuralism) của Claude Lévi-Strauss, lý thuyết nhân văn tân tiến nhất ngày nay.

     Như thế, tìm về Văn Hoá Dân Tộc cũng là tìm về Cơ Cấu Huyền Sử, tức Sử Hàng Dọc, Sử Tâm Linh để có cái nhìn Bao Quát, Nền Tảng, Ý Nghĩa trên những sinh hoạt đa dạng của Văn Hoá, hầu đọc được Hoạ Đồ Tâm Linh Dân Tộc, bức Di Chúc Tinh Thần của dòng Sử Mệnh Việt.

4- TÌM RA NHỮNG LUẬT CHUNG TỪ NHỮNG MÔ HÌNH DẠNG THỨC ĐỂ SUY DIỄN VÀ QUY NẠP

     Như đã trình bày ở trên, theo Cơ Cấu luận, cơ cấu văn hoá nói chung, Cơ Cấu Huyền Sử nói riêng của mỗi dân tộc, vì ở bình diện Vô thức nên nằm ngầm trong các định chế, thói tục, thần thoại…Nếu tìm được ra cơ cấu vô thức ấy, đó chính là Nguyên Lý giải nghĩa được tất cả các thể chế, thói tục, thần thoại khác. Muốn tìm ra cơ cấu chung này, thì cần phải đẩy sự phân tích sâu xa đến trung độ, vì cái lương tri bất biến của bản tính con người là hệ thống những Niệm thức nằm xen kẽ giữa hạ tầng và thượng tầng kiến trúc. Nhờ vị trí trung gian đó, mà chúng trở nên lưỡng diện, tức vừa có tính thường nghiệm mà lại khả tri (empirique et intelligible). Là thường nghiệm, nên biến đổi, còn là khả tri nên bất biến, nghĩa là chúng vâng theo một số mẫu mực trở đi trở lại, vì chúng xuất phát từ một lương tri luôn luôn đồng nhất với mình. Do đó, chúng vượt lên trên quan điểm xã hội hay biến đổi. Điều quan trọng là tìm ra những cơ cấu đó. Chúng tuy không có nhiều, nhưng rất khó tìm, vì chúng bị chôn vùi dưới những phạm trù lý trí, những dạng thức do trí óc con người tạo ra hoặc những tổ chức đa dạng trong xã hội. Trong mục đích tìm hiểu Cơ Cấu Vô Thức cơ bản đó, Lévi-Strauss đề nghị một phương pháp là kiến tạo ra những dạng thức để làm dụng cụ quan sát và xếp loại từ những dữ kiện thâu lượm được trong vùng tiềm thức vì Tiềm thức là miền âm u mờ mịt như biển đại dương, nên không thể y cứ vào cái gì để làm tiêu điểm. Những dạng thức được kiến tạo ra không có phần cảm giác cụ thể (sensible), nhưng lại có phần khả niệm (intelligible). Nói cách khác, dạng thức làm cho ta lùi xa thực tại, vì đánh mất phần cảm giác cụ thể, là cốt để nắm vững hơn được thực tại bằng khả niệm tính, kiểu như khoa học vật lý cũng cắt xén sự vật bằng những phương pháp trừu tượng hầu chế ngự thực tại. Dạng thức của Cơ Cấu luận tương tự như Phạm trù của triết gia Kant, còn Cơ Cấu giống như Niệm thức của Kant, nghĩa là một thứ trung gian vừa có tính chất cảm giác cụ thể hầu đi sát sự vật, lại thêm tính chất lý luận trừu tượng để sắp xếp sự vật. Do đó dạng thức được kiến tạo có lý do tồn tại của nó, nên đã xuất hiện nhiều lần, nhưng với Lévi-Strauss thì được khai triển một cách triệt để và hệ thống.

     Trong khi đi tìm những chất liệu để kiến tạo dạng thức, Lévi-Strauss chú ý đến điểm nối đã hiện hình trong lãnh vực liên hệ. Vì Cơ cấu thường hình thành ngay từ thưở sơ khai của mỗi dân tộc, nên Lévi-Strauss đề cao giá trị của những bước khởi đầu, coi đó như là những điểm nối giữa Ý Thức với Tiềm Thức, giữa Sử hàng Ngang và Sử hàng Dọc. Cũng chính vì nhận ra rằng Tiềm Thức con người còn tác động mạnh nơi tâm trạng ban sơ nên Lévi-Strauss quan niệm muốn tìm hiểu một xã hội mà bỏ quên Huyền Thoại, nghĩa là những trang đầu tiên của lịch sử, những sáng tạo ban đầu để chỉ biết có sử ký là một sự sa đọa, mà hậu quả là không nắm được cấu thức của các định chế.

     Chúng ta thử áp dụng phương pháp Cơ Cấu vừa được trình bày ở trên vào việc nghiên cứu Huyền Sử Việt. Điều  cần nhấn mạnh ở đây, là có một sự dị biệt thuộc phương pháp giữa Dạng thức của Lévi-Strauss và Mô hình của Việt Triết. Với Lévi-Strauss, mô thức phải được kiến tạo ra (modèles construits). Nói cách khác, ông tìm cách thay thế các mô hình của các thổ dân bằng những mô hình lý trí để có thể thành những công thức đại số nhờ đó có khả năng giải thích rộng rãi hơn, dễ điều động hơn là mô dạng của thổ dân còn nằm chìm trong tiềm thức. Ngược lại, Mô thức của Việt Triết đã có từ lâu đời, còn kèm theo cả Số (Xem An Vi với những Số Huyền Cơ), cũng như đã nhô lên bình diện Ý Thức nên rất dễ điều động, khả năng biến thái vô biên nên cũng uyển chuyển linh động. Cho nên, thay vì phải kiến tạo Mô thức như Lévi-Strauss, ta chỉ cần lựa chọn mô thức đã sẵn có. Ba Mô thức căn bản của Việt Đạo là: Âm Dương, Tam Tài, Ngũ Hành đã hàm chứa ba nét căn cơ nổi bật nhất: Lưỡng-Nhất Tính, Nhân Chủ tính và Tâm Linh của thời Khai Nguyên Tư Tưởng Việt qua Huyền Sử.

     Như đã trình bày ở trên, Việt tộc là dân tộc duy nhất có Hai vật tổ Tiên  Rồng. Nét đặc trưng này là khởi thuỷ của Mô Hình Âm Dương sau này nơi Dịch Lý. Truyện Bánh Dầy Bánh Chưng tượng trưng cho Trời Đất Giao thoa làm nên con Người Đại Ngã. Ý tưởng Nhân Chủ tiên thiên này dẫn đến Mô Hình Tam Tài Trời-Đất-Người trong Trung Dung. Khi con người nhờ nhận thức được Tiên Rồng Tính nơi Bản Thể Uyên Nguyên mà dung hoà được cặp mâu thuẫn nội tại trong thân tâm mình, cũng như điều lý được các cặp mâu thuẫn trong vũ trụ vạn vật, nên tâm hồn vươn lên tới đợt An Nhiên vì sống với chiều kích Đại Ngã Tâm Linh. Minh thức về Bản Thể Tâm Linh, suối nguồn Thái Hòa được đúc kết nơi Mô Hình Ngũ Hành của Việt Nho sau này.

        Nếu chúng ta biết là Lévi-Strauss được gợi ý lập ra Cơ Cấu luận từ một học giả về Nho giáo là ông Marcel Granet, cũng như những triết gia (Leibniz, Hegel, Jaspers, Heidegger), tâm lý gia (Carl Jung), khoa học gia (Niels Bohr, Fritjof Capra) và nhiều người khác ở hàng đầu của giới trí thức Tây phương chịu ảnh hưởng của Kinh Dịch và Đông phương, thì ta mới hiểu ra rằng khi đi tìm hiểu, học hỏi về nguồn gốc Văn Hoá Dân Tộc Việt, ta sẽ trở về những Chân Lý cổ xưa, nhưng ở đây,“cổ mà không  cỗi” vì những giá trị ngàn xưa đã trở thành bất hủ, là những chân lý vượt không thời, để trở thành đối tượng học hỏi của giới trí thức ưu tú của cả Tây phương lẫn Đông phương ngày nay. Do đó, đối với người Việt, “Về Nguồn” không phải là về với những gì cổ hủ, lỗi thời, mà trái lại, về với Nguồn Việt là trở về với những tiềm năng, khả thể của Thực Tại Miên Trường, giải phóng cho con người khỏi những bước vong thân dưới đủ mọi hình thái lệ thuộc của căn bệnh DUY một chiều kích của nhân loại.

      Thật thế, Cơ Cấu Huyền Sử của Việt Đạo đã có từ xa xưa, rất rõ nét là đã đặt nổi chữ TƯƠNG trong sự quan hệ giữa hai hạn từ nền tảng nhất của Bản Thể Đại Đồng. Hai hạn từ đó có thể gọi là Tiên-Rồng, Hữu-Vô, Thời-Không, Thiên-Địa, Nam-Nữ, Tâm-Vật, Lý-Tình…Khi chiếu Ánh Sáng Tương Quan, Hòa Hợp của Bản Thể Bất Biến trên khắp các mâu thuẫn biến động của cuộc nhân sinh, con người cảm thấy Tâm Hồn An Nhiên, thư thái, hợp nhất cùng linh lực mầu nhiệm của Đạo Thể Viên Dung. Đó là lý do Minh Triết An Vi cần khai quật lại cái CƠ CẤU CẶP ĐÔI UYÊN NGUYÊN Tiên Rồngtrong Việt Đạo để mỗi chúng ta được tham dự vào vẻ đẹp thầm lặng của Chân Lý Bình Quân trong sự thiết lập mối Tương Quan thầm lặng với vũ trụ, vạn vật. 

Đông Lan
(Trích Trong Yêu Mến An Vi, cùng tác giả)

No comments:

Post a Comment

Popular Posts